Truy cứu trách nhiệm hình sự là gì? Bố mẹ quyền đánh đập con cái hay không? Bố mẹ đánh đập con cái có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Dân gian có câu “thương cho roi cho vọt”, vì câu nói này mà nhiều bậc cha mẹ Việt có quan niệm, con mình đẻ ra nên mình có quyền đánh con, hay đánh con chỉ vì thương và muốn dạy dỗ con. Từ xưa, có rất nhiều trường hợp bố mẹ đánh con cái, hay nặng hơn là nạn bạo hành trẻ em. Tuy nhiên, bạo lực không bao giờ là cách tốt nhất để giáo dục con cái. Thậm chí, nhiều trường hợp cha mẹ đánh con còn có thể bị phạt. Thời gian qua, nhiều vụ việc bố mẹ đánh đập, hành hạ con cái, trong đó có nhiều trường hợp gây hậu quả đáng tiếc xảy ra. Tình trạng này hiện rất đáng báo động. Giáo dục con cái bằng những phương pháp bạo lực không những không tốt cho con trẻ mà còn là hành vi vi phạm pháp luật. Việc thương yêu, chăm sóc, nuôi dạy, giáo dục con cái không chỉ là vấn đề thuộc về đạo lý mà còn là quyền và nghĩa vụ pháp lý. Vậy hành vi bố mẹ đánh đập con cái có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
1. Truy cứu trách nhiệm hình sự là gì?
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc người đó thực hiện tội phạm. Là kết quả của việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự, được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, hình phạt và một số biện pháp cưỡng chế hình sự khác do luật hình sự quy định.
Dưới góc độ của khoa học pháp lý, trách nhiệm hình sự có các đặc điểm cơ bản sau:
– Trách nhiệm hình sự là “hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở chỗ người đã gây tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước”.
– Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý. Là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiện.
– Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định.
– Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu Trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và mang án tích.
Căn cứ vào những nội dung của Bộ Luật hình sự 2015 có thể thấy: Truy cứu trách nhiệm hình sự là buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Hay nói cách khác là áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự qua các giai đoạn từ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến điều tra, truy tố và xét xử để buộc người đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi ấy, tức là phải chịu hình phạt. Người có khả năng nhận thức được hành vi của mình, có khả năng điều khiển được hành vi đó là người có năng lực trách nhiệm hình sự và sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu người đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự.
2. Bố mẹ quyền đánh đập con cái hay không?
Căn cứ theo Điều 69
“1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
4. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”
Theo đó, cha mẹ phải có nghĩa vụ yêu thương, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo, giáo dục con, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc cho con chứ không có quyền đánh đập, ngược đãi con.
Ngoài ra, Điều 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 cũng quy định rõ về các hành vi bạo lực gia đình bị nghiêm cấm, bao gồm:
– Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe, tính mạng;
– Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
– Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
– Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
– Cưỡng ép quan hệ tình dục;
– Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
– Chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
– Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
– Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Bạo lực gia đình còn có thể được thể hiện ở các hình thức như:
– Bạo lực về thể chất: đánh đập, ngược đãi, làm tổn thương sức khỏe, đe dọa tính mạng
– Bạo lực về tinh thần: có hành vi, lời nói làm tổn thương tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình.
– Bạo lực về kinh tế: hành vi xâm phạm các quyền lợi về kinh tế của thành viên trong gia đình ( quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động,…)
– Bạo lực về tình dục: các hành vi mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình.
Như vậy, mọi hành vi đánh đập, ngược đãi, hành hạ, cưỡng ép,… hoặc cố ý xâm phạm sức khỏe, tính mạng con cái của cha mẹ đều là những hành vi vi phạm pháp luật được quy định rõ trong văn bản pháp luật hiện hành.
Hiến Pháp nước ta cũng quy định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Điều đó có nghĩa không ai có quyền gây hại đến sức khỏe, cơ thể của người khác kể cả có là cha, mẹ hay người nuôi dưỡng. Vậy nên hành vi đánh đập con cái của cha mẹ là hành vi vi phạm pháp luật.
3. Bố mẹ đánh đập con cái có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Hành vi bố mẹ đánh đập con cái là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm, do đó tùy vào tính chất, mức độ của hành vi mà bố mẹ có thể bị xử phạt hành chính hoặc nặng hơn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người thực hiện hành vi đánh đập con cái xem như vi phạm khoản 3 Điều 6 Luật trẻ em: “bạo lực trẻ em”; sẽ bị xử lý hành chính chịu với mức phạt tiền từ 1.000.000 – 1.500.000, với hành vi gây thương tích cho người trong gia đình theo NĐ 167/2013 hay mức độ nghiêm trọng hơn sẽ bị xử lý hình sự theo qui định tại Điều 134 BLHS “Tội cố ý gây thương tích” với mức hình phạt tù từ 06 tháng – 20 năm tùy thuộc vào mức độ thương tích gây ra. Như vậy, theo quy định của pháp luật thì hành vi bạo lực đối với trẻ của thành viên trong gia đình có chế tài xử phạt hành chính hoặc xử lý hình sự.
Theo quy định tại
– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (căn cứ Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015), khung hình phạt cao nhất có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân đối với một trong các trường hợp làm chết 02 người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên; gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. Ngoài ra, người cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng đối với người dưới 16 tuổi thì sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
– Tội hành hạ người khác (căn cứ Điều 140 Bộ luật Hình sự 2015): Người nào đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình nếu không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 185 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên; đối với 02 người trở lên.
– Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái hoặc người có công nuôi dưỡng mình (căn cứ Điều 185 Bộ luật Hình sự 2015): Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể con, cháu thuộc một trong những trường hợp: Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp “đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo” thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
– Ngoài ra, nếu vì bị ngược đãi, thường xuyên bị đối xử tàn ác làm người đó tự sát thì có thể bị phạt tù cao nhất là 12 năm tù giam do phạm Tội bức tử quy định tại Điều 130 Bộ luật Hình sự 2015.
Như vậy, khi có hành vi bạo hành con cái, cha mẹ hoàn toàn có thể bị phạt tù do hành vi nguy hiểm dẫn đến phải truy cứu trách nhiệm hình sự.