Biện pháp đặt tiền để bảo đảm là gì? Quy định của pháp luật về biện pháp đặt tiền để bảo đảm?
Các biện pháp ngăn chặn là chế định cực kỳ quan trọng được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự, đây là cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các nghiệp vụ trên cơ sở quy định của pháp luật để kịp thời ngăn chặn tội phạm, hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay sẽ tiếp tục phạm tội, hoặc để bảo đảm thi hành án. Bên cạnh các biện pháp ngăn chặn điển hình như bắt người, giữ người, tạm giữ, tạm giam,…thì một biện pháp ngày càng có ý nghĩa quan trọng là biện pháp đặt tiền để bảo đảm- biện pháp ngăn chăn thay thế tạm giam, từ đó, giảm áp lực cho các trại tạm giam, đồng thời cho bị can, bị cáo có một tâm lý tốt trước khi đưa ra xét xử.
Dịch vụ Luật sư
Cơ sở pháp lý:
Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ trưởng Bộ Công an – Bộ Quốc phòng ban hành.
1. Biện pháp đặt tiền để bảo đảm là gì?
Đặt tiền để bảo đảm được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới với những tên gọi khác nhau nhưng nhìn chung đều có điểm tương đồng. Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga cũng quy định biện pháp đặt tiền để bảo đảm tại Điều 106 với nội dung: “Người bị tình nghi, bị can hoặc thể nhân, pháp nhân khác đặt kí quỹ tiền, giấy tờ có giá trị thanh toán hoặc tài sản có giá trị cho cơ quan áp dụng biện pháp ngăn chặn để bảo đảm sự có mặt của người bị tình nghi, bị can theo giấy triệu tập của dự thẩm viên, điều tra viên hoặc toà án và phòng ngừa họ phạm tội mới….”
Biện pháp đặt tiền để bảo đảm trước đây đã được ghi nhận trong
Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam, là một trong ba biện pháp ngăn chặn không mang tính giam giữ được áp dụng đối với bị can, bị cáo để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập.
Bản chất pháp lý biện pháp đặt tiền để bảo đảm được xác định bởi tính chất và nội dung của tác động về vật chất và tâm lý đối với người bị áp dụng. Nếu như bắt người, tạm giữ, tạm giam là biện pháp ngăn chặn tác động cả về thể chất và tâm lý, thì đặt tiền để bảo đảm chủ yếu tác động về mặt tâm lý đối với người bị áp dụng.
Đặt tiền để bảo đảm là một trong những biện pháp ngăn chặn thể hiện tính nhân văn, tiến bộ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Khi áp dụng biện pháp này, bị can, bị cáo không bị hạn chế quyền tự do thân thể nhưng vẫn bị ràng buộc bởi số tiền đã đặt nên họ thường cố gắng thực hiện nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng đồng thời việc sử dụng biện pháp này còn tiết kiệm được chi phí tố tụng.
Có thể hiểu: Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự để thay thế biện pháp tạm giam do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngăn ngừa họ có hoạt động cản trở việc giải quyết vụ án.
2. Quy định của pháp luật về biện pháp đặt tiền để bảo đảm?
Biện pháp đặt tiền để bảo đảm được quy định tại Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự và được quy định về thủ tục phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tại Điều 22, Thông tư liên tịch 04/2018. Vây nội dung cụ thể như thế nào? Luật Dương Gia sẽ phân tích trong từng tiểu mục dưới đây:
2.1. Căn cứ áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.
Khoản 1, Điều 122 quy định rằng: “Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo,…”. Như vậy, việc áp dụng biện pháp này phải dựa trên 3 yếu tố:
Một là, khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tức là phải dựa vào tội danh và loại tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện. Tuy nhiên, Điều 122 là không quy định rõ biện pháp này được áp dụng đối với những loại tội phạm nào, trong trường hợp pháp tội như thế nào, điều này có nghĩa là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm cho cả 4 loại tội: tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Nhưng, biện pháp đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam, nên có thể hiểu bị can, bị cáo thuộc đối tượng bị tạm giam và đáp ứng Khoản 1, Điều 122 thì mới có thể áp dụng biện pháp này.
Hai là, khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm phải căn cứ vào nhân thân của của bị can, bị cáo. Lại một lần nữa, quy định của pháp luật lại không thể hiện hết rõ nội tình bên trong của nó, việc căn cứ vào nhân thân lại phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng chứ không có một văn bản nào hướng dẫn, thông thường bị can, bị cáo áp dụng biện pháp này là người có nhân thân tốt (người có công với cách mạng, …) và có nơi cư trú rõ ràng.
Ba là, khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm phải căn cứ vào tình trạng tài sản của bị can, bị cáo. Đây là căn cứ khó xác định, việc xác định này mang tính chủ quan nhiều hơn khách quan, bởi pháp luật không quy định về mức tiền được đặt.
Đối tượng thực hiện biện pháp đặt tiền để bảo đảm là bị can, bị cáo hoặc người thân thích của bị can, bị cáo.
2.2. Thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm.
Khoản 3, Điều 122 quy định những chủ thể sau có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm:
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
– Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
– Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
– Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Theo như quy định này thì có thể thấy, người có quyền áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm tùy theo từng giai đoạn tố tụng, từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử.
Điểm tiến bộ của
2.3. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo .
Điều 122 chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đặt tiền để bảo đảm, trong biện pháp này, cơ quan tiến hành tố tụng có quyền chủ động ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, riêng trường hợp Cơ quan điều tra quyết định cho bị can hoặc người thân thích của bị can được đặt tiền để bảo đảm, thì ngay sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, Cơ quan điều tra có văn bản nêu rõ lý do, kèm theo chứng cứ, tài liệu gửi Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị xét phê chuẩn. (Trình tự, thủ tục đề nghị phê chuẩn được quy định rất rõ tại Điều 22, TTLT 04/2018).
Đối với việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, bị can, bị cáo hoặc người thân thích của bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
– Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
– Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
– Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Như vậy, có thể hiểu răng, việc có áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm hay không hoàn toàn do người có thẩm quyền quyết định và khi được áp dụng biện pháp này thì bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan đảm bảo các nghĩa vụ luật định.
2.4. Hậu quả pháp lý của biện pháp đặt tiền để bảo đảm.
Có hai hậu quả pháp lý có thể xảy ra khi áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm, hậu quả pháp lý này xảy ra dựa trên hành vi của bị can, bị cáo và áp dụng đối với số tiền được đặt để bảo đảm:
Trường hợp 1: Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt (Khoản 4, Điều 122). Điều này là hoàn toàn hợp lí, đúng với tinh thần và mục đích của biện pháp ngăn chặn này,
Trường hợp 2: Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước (Khoản 2, Điều 122).
Người thân thích của bị can, bị cáo được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ, nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.
Ở trường hợp hai là trường hợp ràng buộc trách nhiệm của bị can, bị cáo và người thân thích của họ, trên cơ sở cam kết đã thực hiện, nhằm đảm bảo đúng được hiệu quả, mục tiêu của biên pháp đặt tiền để bảo đảm.