Theo quy định của pháp luật, người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong những trường hợp được quyền tạm đình chỉ thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Vậy người bị nhiễm HIV có được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hay không?
Mục lục bài viết
1. Bị nhiễm HIV có được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù không?
Trước hết, căn cứ theo quy định tại Điều 67 và Điều 68 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định, người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong những trường hợp sau đây thì có thể sẽ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Cụ thể như sau:
– Người bị bệnh nặng theo quy định của pháp luật thì sẽ được hoãn cho đến khi sức khỏe của người đó được phục hồi;
– Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì theo quy định của pháp luật sẽ được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
– Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu việc phải chấp hành hình phạt tù sẽ khiến cho gia đình của họ gặp nhiều khó khăn đặc biệt, theo quy định của pháp luật sẽ được hoãn đến 01 năm, ngoại trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia hoặc các tội phạm khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
– Người bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội xuất phát từ lý do công vụ, thì theo quy định của pháp luật sẽ được hoãn đến 01 năm.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch
– Phạm nhân đang bị bệnh nặng đến mức không thể tiếp tục chấp hành án phạt tù, nếu phạm nhân đó phải chấp hành án phạt tù trên thực tế thì có thể sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng của họ, do đó cần thiết phải cho phạm nhân tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù để có thêm điều kiện để chữa bệnh, ngoại trừ trường hợp không có thân nhân hoặc không có nơi cư trú rõ ràng;
– Người bị bệnh nặng theo quy định của pháp luật là người mất một trong các chứng bệnh hiểm nghèo như: ung thư giai đoạn cuối, lao nặng kháng thuốc, liệt, xơ gan cổ chướng, suy tim với mức độ từ độ 03 trở lên, suy thận với mức độ từ độ 04 trở lên, người nhiễm bệnh HIV đang trong giai đoạn chuyển sang AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ cho bản thân và có tiên lượng xấu, có nguy cơ tử vong cao, hoặc mất một trong các chứng bệnh khác được chủ thể có thẩm quyền đó là hội đồng giám định y khoa, bệnh viện cấp tỉnh hoặc bệnh viện cấp quân khu trở lên kết luận bằng văn bản về việc đó là bệnh hiểm nghèo, có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng.
Như vậy có thể nói, không phải tất cả những người bị nhiễm HIV đều có thể sẽ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Theo như điều luật phân tích nêu trên, phạm nhân phát hiện mình bị nhiễm HIV phải đáp ứng được đầy đủ các yếu tố sau thì mới có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Cụ thể như sau:
– Tình trạng bệnh đã chuyển sang giai đoạn AIDS đang có nhiễm trùng cơ hội;
– Người bị bệnh không có khả năng tự phục vụ cho chính bản thân mình;
– Có tiên lượng xấu và có nguy cơ tử vong cao.
2. Thẩm quyền đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho phạm nhân bị nhiễm HIV:
Căn cứ theo quy định tại Điều 5 của Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BYT của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế về việc hướng dẫn thi hành quy định về tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân, có quy định cụ thể về thẩm quyền đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. Theo đó, khi các phạm nhân bị nhiễm HIV nếu đáp ứng được đầy đủ các điều kiện để có thể tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, thẩm quyền đề nghị tạm đình chỉ sẽ được thực hiện như sau:
– Trại giam hoặc trại tạm giam thuộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là Bộ công an hoặc Bộ quốc phòng, trại giam thuộc thẩm quyền quản lý của quân khu đề nghị đình chỉ chấp hành án phạt tù cho các phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại giam và các trại tạm giam đó;
– Cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh, thành phố là cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho những phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại trại tạm giam hoặc các cơ quan thi hành án hình sự thuộc công an cấp huyện do Công an cấp tỉnh trực tiếp quản lý;
– Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho các phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại các trại tạm giam và các trại giam thuộc quân khu mình quản lý;
– Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát nhân dân cấp quân khu là cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho các phạm nhân đang chấp hành án phạt tù thuộc phạm vi, thẩm quyền quản lý của mình.
3. Hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho phạm nhân bị nhiễm HIV:
Căn cứ theo quy định tại Điều 5 của Thông tư liên tịch 02/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về việc quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tạm đình chỉ và giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, thành phần hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho các phạm nhân bị nhiễm HIV sẽ bao gồm các loại giấy tờ và tài liệu như sau:
– Đơn đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù cho phạm nhân của người thân thích với phạm nhân đó, có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi phạm nhân đó cư trú;
– Văn bản đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù của giám thị trại giam, giám thị trại tạm giam thuộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là Bộ công an hoặc Bộ quốc phòng, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hoặc Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu;
– Bản án, quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
– Quyết định thi hành án phạt tù của cơ quan có thẩm quyền;
– Kết quả xét nghiệm HIV của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là Bộ y tế, bệnh án và kết luận của các cơ quan y tế có thẩm quyền khẳng định bệnh nhân đã chuyển sang giai đoạn AIDS, bệnh nhân đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ cho bản thân, có tiên lượng xấu;
– Các tài liệu và giấy tờ khác khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017);
– Thông tư liên tịch 03/2013/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BQP-BYT của Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế về việc hướng dẫn thi hành quy định về tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân;
– Thông tư liên tịch 02/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về việc quy định quan hệ phối hợp trong việc thực hiện trình tự, thủ tục tạm đình chỉ và giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.