Bị người tâm thần gạ gẫm quan hệ tình dục thì có chịu trách nhiệm gì không? Trách nhiệm hình sự đối với hành vi hiếp dâm.
Bị người tâm thần gạ gẫm quan hệ tình dục thì có chịu trách nhiệm gì không? Trách nhiệm hình sự đối với hành vi hiếp dâm.
Tóm tắt câu hỏi:
Ông A đang ở nhà thì chị B ở cùng thôn đến, có gạ gẫm sau đó A và B quan hệ tình dục dẫn đến B có thai hiện đã sinh con được 2 tháng. Gia đình chị B kiện A vì A có quan hệ với B trong khi B bị tâm thần. Xử lý A thế nào?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Trong trường hợp này của bạn, bạn cần làm đơn tố cáo tới cơ quan Công an để Công an tiến hành điều tra và đưa đi trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối chị B. Để xem xét mức độ bệnh tật của chị như thế nào.
– Tại Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự như sau:
“Điều 22. Mất năng lực hành vi dân sự
1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.
Theo đó, để xác định được một người bị tâm thần mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì phải được Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.
– Tại Điều 111 Bộ luật hình sự năm sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội hiếp dâm như sau:
“Điều 111. Tội hiếp dâm
1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
c) Nhiều người hiếp một người;
d) Phạm tội nhiều lần;
đ) Đối với nhiều người;
e) Có tính chất loạn luân;
g) Làm nạn nhân có thai;
h) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân:
a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Và theo Điều 111 Bộ luật hình sự năm sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tội hiếp dâm để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này phải có yếu tố cấu thành như sau:
– Anh A phải có hành vi: dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ hoặc thủ đoạn khác.
+ Dùng vũ lực là dùng sức mạnh về thể chất như vật ngã, đè, giữ tay, chân, bịt miệng, bóp cổ, đấm đá, trói, giằng xé quần áo… của nạn nhân làm mất hoặc hạn chế khả năng phòng vệ, tự vệ, tự vệ, chống trả của nạn nhân.
+ Đe dọa dùng vũ lực là dùng lời nói, cử chỉ, động tác nhưng chưa tác động vào người nạn nhân, nhưng làm cho nạn nhân hiểu rằng nếu người phạm tội không giao cấu được thì sẽ sử dụng vũ lực ngay tức khắc.
+ Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân như: nạn nhân bị say, bị ốm hoặc bị tâm thần.
+ Dùng thủ đoạn khác như đánh thuốc mê nạn nhân, lừa nạn nhân.
– Giao cấu trái ý muốn nhân là việc giao cấu nhưng không được sự đồng ý của nạn nhân.
Như vậy, đối với trường hợp của bạn, bạn nên làm đơn tố cáo anh A tới cơ quan Công an, để cơ quan Công an tiến hành điều tra xác minh vụ việc trên. Tại Điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về tố giác tội phạm như sau:
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
"Điều 101. Tố giác và tin báo về tội phạm
Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.
Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản”.
Căn cứ vào quy định này thì nếu phát hiện ra người nào đó có hành vi phạm tội thì người phát hiện tội phạm có quyền tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức.