Hiện nay, nhiều bạn trẻ do nhẹ dạ cả tin mà đem lòng yêu thương, tình cảm của mình cho đối tượng xấu dẫn đến hậu quả mang thai ngoài mong muốn. Vậy, đối với trường hợp bị lừa tình dẫn đến mang thai có thể khởi kiện được không?
Mục lục bài viết
1. Bị lừa tình dẫn đến mang thai có thể khởi kiện được không?
Để xác định được việc bị lừa tình dẫn đến mang thai có thể khởi kiện được hay không thì Luật Dương Gia xin làm hai trường hợp sau đây:
1.1. Trường hợp 1: Hành vi quan hệ tình dục dẫn đến mang thai cấu thành tội phạm:
Dưới góc độ pháp lý, chúng ta cần xem xét yếu tố tự nguyện của hai bên nam, nữ cụ thể:
-
Trường hợp, một trong hai bên nam, nữ không tự nguyện:
Trong trường hợp hành vi quan hệ tình dục mà một trong hai bên nam, nữ không tự nguyện mà đáp ứng đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì căn cứ theo quy định
Thứ nhất, Tội hiếp dâm (Điều 141
– Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân.
– Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với các trường hợp phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, cụ thể:
+ Có tổ chức;
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chữa bệnh, chăm sóc, giáo dục;
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Nhiều người hiếp một người;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Có tính chất loạn luân;
+ Gây tổn hại cho sức khỏe, gây thương tích hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Tái phạm nguy hiểm.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
– Đối với các trường hợp phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định nêu trên, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.
Như vậy, người nào cưỡng ép quan hệ tình dục trái ý muốn của họ mà dẫn đến có thai thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự từ 7 năm đến 15 năm. Ngoài ra, đối với trường hợp người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ hai, Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142
– Người nào thực hiện một trong các hành vi dưới đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
+ Đe dọa dùng vũ lực, dùng vũ lực, hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
+ Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
– Phạm tội thuộc một trong các trường hợp dưới đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Có tính chất loạn luân;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Tái phạm nguy hiểm.
– Phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình đối với các trường hợp dưới đây:
+ Có tổ chức;
+ Đối với người dưới 10 tuổi;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
+ Nhiều người hiếp một người;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
Như vậy, theo quy định nêu trên đối với hành vi lừa tình dẫn đến mang thai cấu thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì khung hình phạt đối với tội này là từ 12 năm đến 20 năm. Ngoài ra, đối với các trường hợp mà người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ ba, Tội cưỡng dâm (Điều 143 Bộ luật hình sự 2015), cụ thể:
– Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
– Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Nhiều người cưỡng dâm một người;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Có tính chất loạn luân;
+ Gây tổn hại cho sức khỏe, gây thương tích hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60%;
+ Tái phạm nguy hiểm.
– Phạt tù từ 10 năm đến 18 năm, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
– Đối với các trường hợp cưỡng dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Như vậy, đối với tội danh cưỡng dân mà làm nạn nhân có thai thì khung hình phạt sẽ từ 03 đến 10 năm. Đối với trường hợp mà người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ tư, Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144 Bộ luật hình sự 2015), cụ thể:
– Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm đối với Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
– Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với trường hợp phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Có tính chất loạn luân;
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 3 1% đến 60%;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Tái phạm nguy hiểm.
– Phạt từ từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân đối với trường hợp phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Nhiều người cưỡng dâm một người;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
+ Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
Như vậy, đối với trường hợp phạm tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và làm nạn nhân có thai sẽ bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Ngoài ra, đối với trường hợp mà người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ năm, Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145
– Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật Hình sự;
– Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
+ Có tính chất loạn luân;
Như vậy, đối với trường hợp người trên 18 tuổi phát sinh quan hệ tự nguyện với người từ 13 đến dưới 16 tuổi thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tự nguyện và làm nạn nhân có thai thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Ngoài ra, đối với người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 – 05 năm.
-
Trường hợp, hai bên nam, nữ tự nguyện với nhau:
Trong trường hợp hai bên nam, nữ tự nguyện với nhau xuất phát từ tình cảm của hai bên và sự tự nguyện của cả hai bên thì dưới góc độ pháp lý thì có các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, hai bên nam đã đủ 18 tuổi trở lên và nữ chưa đủ 16 tuổi thì theo quy định pháp luật đây là hành vi vi phạm pháp luật về tội giao cấu với trẻ em dưới 16 tuổi. Bạn nữ chưa đủ 16 tuổi mà tự nguyện quan hệ tình dục với bên nam thì cấu thành tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi:
– Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
– Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm, đối với trường hợp phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Làm nạn nhân có thai;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Đối với 02 người trở lên;
+ Có tính chất loạn luân;
+ Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
– Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm, đối với các trường phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
Như vậy, trường hợp bạn nam lừa tình và làm cho bạn nữ có thai và bạn nữ chưa đủ 16 tuổi thì sẽ bị phạt từ từ 03 năm đến 10 năm tùy theo mức độ nguy hiểm. Ngoài ra, đối với Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ hai, bạn nam chưa đủ 16 tuổi và bạn nữ đã từ 16 tuổi trở lên thì dù bạn nữ có mang bầu nhưng không cưới thì đây sẽ là hành vi quan hệ tình dục với trẻ em dưới 16 tuổi. Và trường hợp này bạn nữ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lí về tội giao cấu hay thực hiện hành vi với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và áp dụng hình phạt như tại Điều 145 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Thứ ba, cả bạn bên nam, nữ đều đã đủ tuổi chịu trách nhiệm tức đã là từ đủ 16 tuổi trở lên hoặc cả hai đều chưa đủ 16 tuổi. Do vậy, dưới góc độ pháp luật cả hai cả hai chưa có đủ khả năng để giải quyết hoặc đã đủ khả năng để giải quyết sự việc trên nên pháp luật sẽ không thể buộc hai bạn sau này đủ tuổi phải đăng ký kết hôn bởi việc đăng ký kết hôn theo quy định chính là sự tự nguyện của hai bên nam, nữ, đây là sự lựa chọn của hai bạn có tiến đến hôn nhân hay không.
KẾT LUẬN: Nạn nhân bị lừa tình dẫn đến mang thai trong trường hợp hành vi của bên nam cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự thì nạn nhân hoàn toàn có thể làm đơn trình báo lên cơ quan công an điều tra hình sự cấp quận/huyện nơi mà người nam này đang cư trú để được giải quyết.
Kể từ ngày nhận được tin báo, tố giác, về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong thời hạn 20 ngày thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm phải tiến hành kiểm tra, xác minh và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có yếu tố hình sự.
Sau đó Cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo đúng trình tự quy định pháp luật, quý bạn đọc hoàn toàn có thể đưa ra yêu cầu đòi bồi thường trong trong trường hợp có hành vi vi phạm của bên người thực hiện hành vi tội phạm gây ra những thiệt hại.
1.2. Trường hợp 2: Hành vi quan hệ tình dục dẫn đến mang thai không cấu thành tội phạm:
Trong trường hợp cả hai bên nam, nữ đã thành niên và tự nguyện quan hệ tình dục dẫn tới có thai thì khi đó hành vi này sẽ không đủ yếu tố cấu thành tội phạm do vậy hành vi này không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do đó không thể buộc tội với bất kỳ tội danh nào theo quy định.
Đối với trường hợp này, nạn nhân các quý bạn đọc hoàn toàn dùng biện pháp tình cảm, nhẹ nhàng và thỏa thuận hai bên để cùng có trách nhiệm nuôi dưỡng con để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của đứa trẻ về sau này.
2. Bị lừa tình dẫn đến mang thai có yêu khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng nuôi con không?
Căn cứ theo quy định tại Khoản 24 Điều 3
Tuy nhiên, trong trường hợp hai bên đã tự thỏa thuận với nhau về mức cấp dưỡng mà người cha cố tình không cấp dưỡng cho người con, thì quý bạn đọc bạn nữ có thể khởi kiện ra Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết việc xác định cha, con. Theo đó, quý bạn đọc cần cung cấp được bằng chứng hoặc yêu của Tòa án thu thập chứng cứ trong vụ án dân sự theo các bước sau đây:
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ
Quý bạn đọc cần chuẩn bị 01 bộ hồ sơ rồi gửi lên Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng bạn cư trú để yêu cầu giải quyết. Hồ sơ bao gồm các loại giấy tờ sau đây:
1) Đơn khởi kiện yêu cầu xác định lại cha cho con;
2) CMND/căn cước công dân;
3) Giấy khai sinh của cháu;
4) Văn bản, giấy tờ chứng minh mối quan hệ cha – con của bạn và cháu bé như: Kết quả giám định ADN, tài liệu, phim ảnh, người làm chứng,…
Bước 2: Tòa án ra quyết định công nhận quan hệ cha con thì quý bạn đọc cần khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng cho con hoặc gộp chung khởi kiện cùng với việc xác nhận cha, mẹ con.
Đối với trường hợp trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng thì có thể khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền để buộc người này phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định và việc xác định mức cấp dưỡng có thể do 2 bên thỏa thuận hoặc do Tòa án quyết định căn cứ vào các tiêu chí sau đây:
– Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
– Thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng;
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, năm 2021;