Bệnh động kinh là một trong những bệnh thường sẽ xảy ra ở người, khi mắc bệnh động kinh thì hệ thống thần kinh của con người sẽ bị rối loạn, thậm chí ở một số người còn có thể dẫn đến khả năng mất nhận thức. Vậy bị bệnh động kinh có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không?
Mục lục bài viết
1. Bị bệnh động kinh có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
bộ luật hình sự năm 2015 hiện nay không có quy định cụ thể về việc thế nào là bệnh động kinh và bị bệnh động kinh có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Việc xem xét trách nhiệm hình sự đối với người bị bệnh động kinh sẽ căn cứ theo quy định tại Điều 21 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đây là điều luật quy định về vấn đề tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo đó, khi người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi người đó đang mắc các bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi của mình thì người đó sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó thì có thể nói, người bị bệnh động kinh có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không sẽ tùy từng trường hợp khác nhau. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, nếu trong lúc người đó thực hiện hành vi phạm tội không thể nhận thức và không thể điều khiển hành vi của mình thì người đó sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, còn nếu tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội và gây ra hậu quả trên thực tế, người đó vẫn còn khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình, thì họ sẽ bị áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc căn cứ theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật hình sự năm 2015. Và sau khi khỏi bệnh, họ vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các biện pháp tư pháp. Theo đó, các biện pháp tư pháp sẽ được áp dụng đối với người phạm tội bao gồm:
– Tịch thu tiền, tịch thu vật trực tiếp liên quan đến tội phạm;
– Trả lại tài sản, tiến hành các hoạt động sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế, bắt buộc xin lỗi công khai;
– Bắt buộc chữa bệnh.
Bên cạnh đó, các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao gồm các biện pháp cơ bản sau:
– Tịch thu tiền, tịch thu vật trực tiếp liên quan đến tội phạm;
– Trả lại tài sản, tiến hành các hoạt động sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại xảy ra trên thực tế, bắt buộc công khai xin lỗi;
– Khôi phục lại tình trạng ban đầu;
– Thực hiện một hoặc một số biện pháp nhằm khắc phục và ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
Đối chiếu với Điều 49 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về vấn đề bắt buộc chữa bệnh. Cụ thể như sau:
– Đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc các chứng bệnh căn cứ theo quy định tại Điều 21 của Bộ luật hình sự năm 2015, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là viện kiểm sát hoặc tòa án nhân dân sẽ căn cứ vào kết luận giám định pháp y, căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần từ đó có thể đưa ra quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh;
– Đối với những người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự tuy nhiên trước khi bị kết án tại cơ quan có thẩm quyền họ đã mắc các chứng bệnh dẫn tới mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì sẽ căn cứ vào kết luận giám định pháp y và kết luận giám định pháp y tâm thần, cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án có thể đưa ra quyết định về việc đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để yêu cầu họ bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh thì những người đó có thể vẫn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự;
– Đối với những người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh dẫn tới khả năng mất nhận thức và mất khả năng điều khiển hành vi thì sẽ căn cứ vào kết luận giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để yêu cầu họ bắt buộc chữa bệnh. Sau khi những đối tượng đó khỏi bệnh, nếu không còn lý do nào khác để có thể đưa ra quyết định miễn chấp hành hình phạt, thì người đó vẫn sẽ tiếp tục phải chấp hành hình phạt. Thời gian bắt buộc chữa bệnh sẽ được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
2. Bị bệnh động kinh có được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ bao gồm các tình tiết như sau:
– Người phạm tội đã thực hiện hành vi ngăn chặn, giảm bớt tác hại của tội phạm trên thực tế trong phạm vi khả năng của mình;
– Người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, có hành vi khắc phục hậu quả;
– Người phạm tội phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi thực hiện hoạt động bắt giữ người phạm tội của cơ quan chức năng có thẩm quyền;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần, nguyên nhân dẫn đến vấn đề kích động về tinh thần trong trường hợp này là do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
– Phạm tội xuất phát vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tuy nhiên hoàn cảnh khó khăn đó không phải do người phạm tội tự mình gây ra;
– Phạm tội tuy nhiên chưa gây ra hậu quả trên thực tế, hoặc có gây ra hậu quả nhưng hậu quả thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
– Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức, dẫn đến khả năng không thể chống cự và không có sự lựa chọn nào khác;
– Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức, trường hợp hạn chế khả năng đó không phải do lỗi của người phạm tội gây ra;
– Phạm tội do bị lạc hậu, người phạm tội được xác định là phụ nữ có thai, người phạm tội được xác định là người từ đủ 70 tuổi trở lên;
– Người phạm tội được xác định là người khuyết tật nặng hoặc người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật;
– Người phạm tội tự thú, người phạm tội là người mắc các bệnh dẫn đến khả năng hạn chế nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình;
– Người phạm tội đã có công chuộc tội, giúp đỡ tích cực cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình phát hiện và điều tra tội phạm;
– Người phạm tội có hành vi thành khẩn khai báo tại cơ quan có thẩm quyền, ăn năn hối cải, có thành tích xuất sắc trong quá trình sản xuất, chiến đấu, học tập và công tác;
– Người phạm tội có mối quan hệ là cha mẹ, vợ chồng, con của các đối tượng là liệt sĩ, người có công với cách mạng.
Theo đó thì có thể nói, theo quy định cụ thể tại điểm g khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, thì bị bệnh động kinh có thể là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nếu người phạm tội bị bệnh động kinh dẫn đến khả năng hạn chế nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi của mình, đồng thời có bản án của tòa án tuyên bố người phạm tội bị hạn chế nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
3. Người có sổ điều trị bệnh động kinh thì tòa án có được ra quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 22 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề mất năng lực hành vi dân sự. Cụ thể như sau:
– Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các chứng bệnh khác dẫn tới khả năng không thể nhận thức và không thể làm chủ hành vi của mình thì theo yêu cầu của những người có quyền, yêu cầu của những người có quyền lợi liên quan, yêu cầu của các cơ quan và tổ chức hữu quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố người đó là người mất năng lực hành vi dân sự dựa trên cơ sở xem xét kết luận giám định pháp y tâm thần;
– Khi không còn căn cứ tuyên bố một người nào đó là người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó, hoặc yêu cầu của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khác, hoặc theo yêu cầu của các cơ quan và các tổ chức hữu quan, cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án hoàn toàn có thể ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự đối với một người;
– Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự bắt buộc sẽ phải được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật và xác lập thông qua người đại diện theo pháp luật.
Theo đó thì có thể nói, trong trường hợp nếu có căn cứ cho rằng người này bị mắc các chứng bệnh tâm thần dẫn tới khả năng không thể nhận thức và không thể làm chủ hành vi của mình, theo yêu cầu của các cơ quan có liên quan, theo yêu cầu của những người có quyền lợi liên quan hoặc theo yêu cầu của chính người đó, tòa án là cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự dựa trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Các cán bộ sẽ không thể từ chối thụ lý đơn với lý do người đó không đủ năng lực hành vi dân sự khi chưa có quyết định chính thức của tòa án về việc tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).