Trên thực tế, tục bắt vợ là một trong những luật tục của đồng bào dân tộc thiểu số khi người con gái đã lớn, đến tuổi lấy chồng, người con trai sẽ đến nhà người con gái để cướp họ về làm vợ. Vậy bắt vợ theo tục lệ có bị coi là hành vi vi phạm pháp luật hay không?
Mục lục bài viết
1. Bắt vợ theo tục lệ có vi phạm pháp luật không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 36 của Hiến pháp năm 2013 có quy định về quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong vấn đề kết hôn. Cụ thể như sau:
– Nam và nữ có quyền kết hôn, ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, vợ chồng bình đẳng, một vợ một chồng, tôn trọng lẫn nhau trong quá trình chung sống, giúp đỡ lẫn nhau trong quan hệ hôn nhân gia đình;
– Nhà nước sẽ bảo hộ quan hệ hôn nhân và gia đình, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người mẹ và trẻ em.
Căn cứ theo quy định tại Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong quan hệ hôn nhân gia đình. Cụ thể như sau:
– Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo trái quy định của pháp luật;
– Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở quá trình kết hôn tự nguyện và tiến bộ, lừa dối kết hôn;
– Những người đang có vợ hoặc đang có chồng tuy nhiên kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác, những người chưa có vợ hoặc chưa có chồng tuy nhiên kết hôn hoặc chung sống với người đang có vợ hoặc người đang có chồng;
– Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, giữa những người có mối quan hệ là cha mẹ với con nuôi, đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ hoặc mẹ kế với con riêng của chồng;
– Yêu sách của cải trong hoạt động kết hôn, cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn tự nguyện tiến bộ;
– Có hành vi bạo lực gia đình dưới bất kỳ hình thức nào;
– Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân gia đình để mua bán người, xâm phạm tình dục, bóc lột sức lao động hoặc có hành vi nhằm mục đích trục lợi cá nhân;
– Thực hiện hoạt động sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, có hành vi lựa chọn giới tính thai nhi và sinh sản vô tính.
Đặc biệt, căn cứ theo quy định tại Điều 8 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về điều kiện kết hôn. Theo đó, các cá nhân hoàn toàn có quyền kết hôn với con riêng của mẹ nếu các bên nam/nữ đáp ứng được đầy đủ các điều kiện như sau:
– Đáp ứng đầy đủ độ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật, cụ thể là nam từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
– Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bị ép buộc hoặc lừa dối dưới bất kỳ hình thức nào;
– Các chủ thể tham gia vào quá trình kết hôn không bị mất năng lực hành vi dân sự, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật;
– Việc kết hôn không thuộc một trong những trường hợp bị cấm kết hôn theo quy định của pháp luật.
Có thể nói, pháp luật về hôn nhân và gia đình hiện nay nghiêm cấm hành vi cưỡng ép kết hôn, tảo hôn trái quy định của pháp luật. Đây là một trong những quy định của pháp luật để đảm bảo thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình tự nguyện, tiến bộ. Hủ tục bắt vợ tại đồng bào các dân tộc thiểu số hiện nay là một trong những hành vi kết hôn không xuất phát từ tình cảm, không suất phát từ mong muốn của các bên nam nữ, vì vậy hành vi bắt vợ là một trong những hành vi cưỡng ép kết hôn, vi phạm quy định của pháp luật về điều cấm trong quan hệ hôn nhân gia đình.
2. Bắt vợ theo tục lệ bị xử phạt hành chính như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 59 của
– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với các chủ thể thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
+ Người đang có vợ hoặc người đang có chồng tuy nhiên kết hôn với người khác, hoặc người chưa có vợ và người chưa có chồng kết hôn với người mà mình biết rõ là người đó đang có vợ hoặc đang có chồng hợp pháp;
+ Người đang có vợ hoặc người đang có chồng tuy nhiên chung sống như vợ chồng với người khác;
+ Người chưa có vợ hoặc người chưa có chồng tuy nhiên chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là họ đang có vợ hoặc đang có chồng;
+ Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người từng được xác định là cha mẹ nuôi với con nuôi, cha mẹ chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ hoặc mẹ kế với con riêng của chồng;
+ Có hành vi cản trở kết hôn, thực hiện nhiều yêu sách của cải trong vấn đề kết hôn, cản trở ly hôn.
– Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với các đối tượng thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
+ Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có cùng dòng máu trực hệ, kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
+ Thực hiện hoạt động kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người được xác định là cha mẹ nuôi với con nuôi;
+ Có hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, lừa dối ly hôn hoặc cưỡng ép ly hôn;
+ Thực hiện hoạt động kết hôn, lợi dụng kết hôn để xuất nhập cảnh, cư trú hoặc nhập quốc tịch Việt Nam, nhập quốc tịch nước ngoài, và các chế độ ưu đãi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhằm mục đích để đạt được các lợi ích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình hợp pháp;
+ Lợi dụng hoạt động ly hôn để trốn nghĩa vụ về tài sản, thực hiện các hành vi vi phạm chính sách và pháp luật về dân số, hoặc thực hiện các hành vi nhằm tới mục đích khác mà không hướng tới mục đích chấm dứt quan hệ hôn nhân.
Theo đó thì có thể nói, hành vi cưỡng ép kết hôn, cụ thể là hành vi bắt vợ theo tục lệ hoàn toàn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền cao nhất là lên đến 20.000.000 đồng đối với cá nhân, 40.000.000 đồng đối với tổ chức.
3. Bắt vợ theo tục lệ có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Hành vi bắt vợ theo tục lệ hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cản trở ly hôn tự nguyện căn cứ theo quy định tại Điều 181 của Bộ luật hình sự năm 2015. Theo đó thì điều luật này có quy định, người nào có hành vi có ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện, có hành vi cản trở người khác kết hôn, hoặc có hành vi cản trở quá trình duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện tiến bộ, người nào có hành vi cưỡng ép hoặc cản trở người khác ly hôn bằng cách ngược đãi, hành hạ dưới bất kỳ hình thức nào, uy hiếp tinh thần của đối tượng, thực hiện nhiều yêu sách của cải hoặc sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau, những đối tượng này đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này tuy nhiên vẫn tái phạm, thì sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
Theo đó thì có thể nói, bắt bỏ theo tục lệ là 100 những hành vi cưỡng ép kết hôn trái quy định của pháp luật, ngoài mức phạt tiền 20.000.000 đồng theo như phân tích nêu trên, nếu gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khung hình phạt thấp nhất có thể sẽ phải chịu đó là phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017);
– Nghị định 82/2020/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.