Trong bối cảnh kinh doanh bán lẻ hiện nay, vấn đề an ninh và bảo vệ tại các siêu thị trở thành một yếu tố quan trọng, nhằm đảm bảo an toàn cho cả khách hàng và hàng hóa. Một trong những câu hỏi thường xuyên được đặt ra là liệu bảo vệ siêu thị có quyền khám xét túi và người của khách hàng hay không? Hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Nhân viên bảo vệ của siêu thị có được phép khám xét túi, người của khách hàng không?
Dựa trên quy định tại Điều 194 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, sửa đổi năm 2021 việc khám xét người phải tuân thủ các quy định sau:
-
Trước khi tiến hành khám xét, người thi hành lệnh phải đọc và đưa lệnh khám xét cho người bị khám xét xem; đồng thời, giải thích cho họ và những người có mặt về quyền và nghĩa vụ của họ.
-
Người tiến hành khám xét cần yêu cầu người bị khám xét giao nộp các tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án. Nếu họ từ chối hoặc không giao nộp đầy đủ, việc khám xét sẽ được thực hiện.
-
Việc khám xét người phải do người cùng giới thực hiện và có người khác cùng giới chứng kiến, đồng thời không được xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của người bị khám xét.
-
Trong các trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ khẳng định người có mặt tại nơi khám xét đang giấu trong người vũ khí, hung khí, chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, việc khám xét có thể được tiến hành mà không cần lệnh.
Từ những quy định này, có thể kết luận rằng việc nhân viên bảo vệ tự ý khám xét người và túi xách của bạn là vi phạm pháp luật. Trong tình huống này, bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền can thiệp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, xử lý người vi phạm, và buộc người vi phạm phải xin lỗi và bồi thường thiệt hại về uy tín và danh dự do hành động khám xét trái pháp luật gây ra.
2. Quy định pháp luật về căn cứ để khám xét người:
Theo quy định tại Điều 192 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, sửa đổi năm 2021 việc khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử phải dựa trên các căn cứ sau:
-
Khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm và phương tiện chỉ được thực hiện khi có lý do để tin rằng trong đó có chứa công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc các đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác liên quan đến vụ án. Việc khám xét này cũng áp dụng để phát hiện người đang bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân.
-
Khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử có thể được thực hiện khi có cơ sở để tin rằng trong đó chứa công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản liên quan đến vụ án.
Như vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, sửa đổi năm 2021 việc khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm và phương tiện chỉ được tiến hành khi có cơ sở để tin rằng có sự tồn tại của công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản phạm pháp hoặc các đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác liên quan đến vụ án. Việc khám xét cũng nhằm mục đích phát hiện người bị truy nã, truy tìm và giải cứu nạn nhân khi cần thiết.
3. Ai có thẩm quyền ra lệnh khám xét?
Theo quy định tại Điều 193 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, sửa đổi năm 2021 những người có quyền ra lệnh khám xét bao gồm:
-
Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng Hình sự có quyền ra lệnh khám xét. Đối với lệnh khám xét của những người quy định tại khoản 2 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, cần có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát có thẩm quyền trước khi tiến hành.
-
Trong trường hợp khẩn cấp, những người có thẩm quyền được quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật Tố tụng Hình sự có quyền ra lệnh khám xét. Sau khi tiến hành khám xét, trong vòng 24 giờ, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc.
-
Trước khi thực hiện khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên đến kiểm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để giám sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt, phải ghi rõ lý do vào biên bản khám xét.
-
Mọi trường hợp khám xét đều phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và được đưa vào hồ sơ vụ án.
Theo khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, sửa đổi năm 2021 các đối tượng sau đây có quyền thực hiện một số hoạt động điều tra:
-
Bộ đội biên phòng: Bao gồm Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Trinh sát Biên phòng; Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Phòng, chống Ma túy và Tội phạm; Đoàn trưởng và Phó Đoàn trưởng Đoàn Đặc nhiệm Phòng, chống Ma túy và Tội phạm; Chỉ huy trưởng và Phó Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Đồn trưởng và Phó Đồn trưởng Đồn Biên phòng; Chỉ huy trưởng và Phó Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng.
-
Hải quan: Bao gồm Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Điều tra Chống Buôn lậu; Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Kiểm tra sau Thông quan; Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chi cục trưởng và Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan Cửa khẩu.
-
Kiểm lâm: Bao gồm Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Kiểm lâm; Chi cục trưởng và Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm; Hạt trưởng và Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm.
-
Lực lượng Cảnh sát biển: Bao gồm Tư lệnh và Phó Tư lệnh Cảnh sát Biển; Tư lệnh vùng và Phó Tư lệnh vùng Cảnh sát Biển; Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và Pháp luật; Đoàn trưởng và Phó Đoàn trưởng Đoàn Đặc nhiệm Phòng, chống Tội phạm Ma túy; Hải đoàn trưởng và Phó Hải đoàn trưởng; Hải đội trưởng và Phó Hải đội trưởng; Đội trưởng và Phó Đội trưởng Đội Nghiệp vụ Cảnh sát Biển.
-
Kiểm ngư: Bao gồm Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư; Chi cục trưởng và Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng.
-
Công an nhân dân: Bao gồm Giám đốc và Phó Giám đốc Cảnh sát Phòng cháy, Chữa cháy; Cục trưởng và Phó Cục trưởng, Trưởng phòng và Phó Trưởng phòng các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân; Giám thị và Phó Giám thị Trại giam theo quy định của Luật Tổ chức Cơ quan Điều tra Hình sự.
-
Quân đội nhân dân: Bao gồm Giám thị và Phó Giám thị Trại giam; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương.
-
Cán bộ điều tra thuộc các cơ quan nêu tại khoản 1 Điều này.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, sửa đổi năm 2021 các cá nhân sau có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
-
Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp.
-
Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục Trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục Phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn Đặc nhiệm Phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và Pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn Đặc nhiệm Phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng.
-
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải nêu rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do và căn cứ giữ người theo quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải tuân theo quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Như vậy, những người nêu trên có thẩm quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 35 và khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, sửa đổi năm 2021 lệnh giữ người phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn.
THAM KHẢO THÊM: