Trong xu thế hội nhập hiện nay của Việt Nam, thì nước ta đã có những quy định về việc bảo lưu trật tự công cộng. Vậy bảo lưu trật tự công cộng là gì? Bảo lưu trật tự công cộng như thế nào. Cùng tìm hiểu dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Bảo lưu trật tự công cộng là gì?
Bảo lưu trật tự công cộng được biết đến là một thuật ngữ khá mới mẻ, chính vì vậy mà rất ít người biết đến về thuật ngữ này. Vậy thuật ngữ này được quy định dưới góc độ pháp lý thì được biết đến là việc các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền không áp dụng luật nước ngoài khi vận dụng và thực hiện các quy phạm xung đột nếu việc áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình.
Do đó, việc bảo lưu trật tự công cộng theo như quy định của pháp luật hiện hành sẽ làm cho hiệu lực của quy phạm xung đột của pháp luật khi dẫn chiếu tới luật nước ngoài cần áp dụng bị hạn chế. Theo như quy định ở trên thì có thể xác định vấn đề được nêu hiểu theo một cách đơn giản nhất là khi áp dụng bảo lưu trật tự công cộng ở trong nước thì sẽ bị luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không áp dụng, nếu việc áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình. trong đó, pháp luật hiện hành đã quy định về trật tự công công có khái niệm như thế nào? và nó được hiểu một cách đơn giản là gì?
Để giải đáp thắc mắc trên thì tác giả sẽ cung cấp tới bạn đọc về khái niệm trật tự công công, theo đó thì trật tự công cộng có thể hiểu là tình trạng xã hội của một quốc gia trong một thời điểm xác định mà hòa bình ổn định và an toàn công cộng không bị xáo trộn. Bên cạnh đó, theo như quy định của pháp luật hiện hành thì khái niệm về “trật tự công” là một thuật ngữ trừu tượng trong pháp luật hầu hết các quốc gia, dưới góc độ tư pháp quốc tế được hiểu là trật tự pháp lý hình thành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia. Qua đó có thể hiểu bảo lưu trật tự công cộng là bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia.
Trên cơ sở pháp luật nước ta có quy định về nội dung này là bởi lẽ, có một nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế đó là việc sử dụng quy phạm xung đột và nội dung pháp luật các nước có quy định khác nhau về cùng một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự công ở mỗi quốc gia là khác nhau.
Như vậy, có thể thấy một điều rằng, đối với hệ thống các quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế hay còn được gọi là pháp luật quốc gia, do quốc gia xây dựng dựa trên nội luật hoặc các điều uớc quốc tế, chính bởi lẽ đó mà việc xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột đầu tiên có thể thấy là việc áp dụng này cũng dựa trên ý chí và lợi ích quốc gia. Không những thế, mà các quốc gia cũng là chủ thể cơ bản trong các quan hệ pháp lý quốc tế, đồng thời cũng có chủ quyền tuyệt đối trong việc xây dựng và áp dụng hệ thống pháp luật riêng của mình.
2. Bảo lưu trật tự công cộng:
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này có thể viện dẫn một ví dụ truyền thống sau: Anh A công dân I rắc 35 tuổi muốn kết hôn với chị B công dân Việt Nam 25 tuổi tại Việt Nam. Tuy nhiên anh A đã có hai vợ. Có thể thấy đây là trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài nên quy phạm xung đột sẽ được viện dẫn để giải quyết, cụ thể Điều 103
Chị B có đủ điều kiện kết hôn và như vậy chị B phải tuân theo các điều kiện kết hôn quy định trong
Khi vận dụng và thực hiện các quy phạm xung đột, đôi khi trong thực tế xuất hiện hiện tượng các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền không áp dụng luật nước ngoài, nếu việc áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình. Tình huống trên trong lí luận tư pháp quốc tế gọi là bảo lưu trật tự công cộng. Bởi nếu áp dụng khoản 1 Điều 103 sẽ dẫn đến hậu quả là cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng hệ thống pháp luật nước ngoài có nội dung vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (hay trật tự công cộng Việt Nam) vì pháp
3. Quy định bảo lưu trật tự công công tại Việt Nam và quốc tế:
Trong tư pháp quốc tế, bảo lưu trật tự công cộng được sử dụng: “Khi cơ quan có thẩm quyền sử dụng các quy phạm xung đột của quốc gia dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài, nhưng không áp dụng hệ thống pháp luật nước ngoài đó (mà trên thực tế đáng lẽ sẽ được áp dụng), hoặc không thừa nhận hiệu lực phán quyết của toà án nước ngoài, do phán quyết đó làm phát sinh một tình thế trái với các nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật của mình hoặc nếu xét thấy việc áp dụng pháp luật nước ngoài là vi phạm các quy định có tính chất thiết lập nền tảng chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội của quốc gia mình, nhằm bảo vệ trật tự công quốc gia”.
Ở Việt Nam, quy định về “ Bảo lưu trật tự công cộng” được ghi nhận rất rõ ràng và cụ thể ở điều 664, 665
Ngoài ra, vấn đề “Bảo lưu trật tự công cộng” còn được ghi nhận ở một số văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Ví dụ , Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định: “Trong trường hợp luật này, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có quy định hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia viện dẫn thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với nguyên tắc quy định trong Luật này”. Bên cạnh đó thì khái niệm này còn được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc kí kết. Ví dụ: Điều 5 Công ước New York 1958 về công nhận và thực hiện các quyết định của trọng tài nước ngoài; Điều 7 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Liên bang Nga năm 1998; Điều 12 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Ba Lan năm 1993…
Theo pháp luật Việt Nam được ghi nhận trong các văn bản trên thì trật tự công cộng được hiểu là các nguyên tắc cơ bản tạo ra một trật tự pháp lý trong chế độ của chúng ta. Việc thực hiện nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng để loại bỏ một số quy định của pháp luật của nước ngoài không thể áp dụng không có nghĩa là luật nước ngoài đối kháng, mâu thuẫn với thể chế chính trị – pháp luật của nhà nước mình mà chỉ là nếu áp dụng thì gây ra hậu quả xấu, không lành mạnh có tác động tiêu cực đối với các nguyên tắc các nền tảng cơ bản, đạo đức, truyền thống và lối sống của nước mình. Các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở nước ta phải cẩn trọng trong việc vận dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng, thực tiến cho thấy rất ít trường hợp phải vận dụng và trường hợp bắt buộc bao giờ cũng dựa trên những cơ sở pháp lý đúng đắn và khách quan, bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: