Huyện Triệu Phong là một đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Đây là một huyện có vị trí địa lý quan trọng và đa dạng về địa hình. Xin mời các bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây với chủ đề Bản đồ, xã phường thuộc huyện Triệu Phong (Quảng Trị) để có những thông tin khái quát và tổng quan nhất về huyện.
Mục lục bài viết
1. Bản đồ hành chính huyện Triệu Phong (Quảng Trị):
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Triệu Đông vào xã Triệu Thành.
Huyện Triệu Phong có 1 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Đơn vị hành chính hiện nay không còn tồn tại: Xã Triệu Đông.
2. Có bao nhiêu xã, phường thuộc huyện Triệu Phong (Quảng Trị)?
Huyện Triệu Phong có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Ái Tử (huyện lỵ) và 15 xã.
Số thứ tự | Danh sách xã, phường |
1 | Thị trấn Ái Tử (huyện lỵ) |
2 | Xã Triệu Ái |
3 | Xã Triệu Sơn |
4 | Xã Triệu Lăng |
5 | Xã Triệu Độ |
6 | Xã Triệu Đại |
7 | Xã Triệu Giang |
8 | Xã Triệu Hòa |
9 | Xã Triệu Long |
10 | Xã Triệu Phước |
11 | Xã Triệu Vân |
12 | Xã Triệu Tài |
13 | Xã Triệu An |
14 | Xã Triệu Thuận |
15 | Xã Triệu Thượng |
16 | Xã Triệu Trạch |
3. Vị trí địa lý huyện Triệu Phong (Quảng Trị):
Huyện Triệu Phong nằm về phía Đông Nam của tỉnh, có địa giới hành chính như sau:
-
Phía Bắc tiếp giáp với huyện Gio Linh với ranh giới tự nhiên là sông Thạch Hãn
-
Phía Nam tiếp giáp với thị xã Quảng Trị
-
Phía Tây tiếp giáp với huyện Cam Lộ
-
Phía Tây Bắc tiếp giáp với thành phố Đông Hà
-
Phía Tây Nam tiếp giáp với huyện Đa Krông
-
Phía Đông Nam tiếp giáp với huyện Hải Lăng
-
Phía Đông tiếp giáp với Biển Đông
Ở vị trí nói trên, Triệu Phong có điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội với các địa phương trong và ngoài tỉnh thông qua tuyến đường hành lang kinh tế Đông Tây.
Huyện Triệu Phong có tọa độ địa lý 16,48 – 16,54 độ vĩ Bắc; 107,12- 108,18 độ kinh Đông, là địa bàn có nhiều tuyến giao thông quan trọng đi qua: Quốc lộ 1A, Tỉnh lộ 580 nối từ Quốc lộ 1A đến Cảng Cửa Việt, Tỉnh Lộ 581 nối từ QL1A qua Thị xã Quảng Trị đi qua hai xã phía Nam Huyện, đến huyện Hải Lăng và đến giáp Thừa Thiên Huế.
Thị trấn Ái Tử là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội của huyện, cách Thành phố Đông Hà 7 km về phía Nam, Thị xã Quảng Trị 6 km về phía Bắc.
4. Diện tích, dân số của huyện Triệu Phong (Quảng Trị):
Huyện Triệu Phong có tổng diện tích đất tự nhiên hơn 354,92 km2 và dân số khoảng 88.852 người (2019), trong đó thành thị có 4.320 người ( 4,9%), nông thôn có 84.532 người ( 95,1%). Mật độ dân số đạt khoảng 306 người/km².
Dân cư chủ yếu là người Kinh, chiếm đa số. Một số ít dân tộc thiểu số sinh sống rải rác, nhưng không đáng kể so với tổng số dân.
Tôn giáo gồm có sự hiện diện của Phật giáo và Công giáo. Một số xã như Triệu Thượng, Triệu Phước, Triệu Sơn có các cộng đồng Công giáo lâu đời.
5. Điều kiện tự nhiên của huyện Triệu Phong (Quảng Trị):
Tài nguyên đất:
Triệu Phong có 3 loại đất chính sau:
Nhóm đất phù sa được bồi và không được bồi: 10.498 ha, chiếm 30% diện tích tự nhiên, do hệ thống sông Thạch Hãn và sông Vĩnh Định bồi đắp, chúng được phân bố ở 12 xã vùng đồng bằng bao gồm: Triệu Thành, Triệu Long, Triệu Hòa, Triệu Đại, Triệu Độ, Triệu Thuận,
Triệu Phước, Triệu Trạch, Triệu Sơn, Triệu Trung, Triệu Tài.
Đất có thành phần cơ giới thịt nặng, ít chua, hàm lượng đạm, mùn trên tầng mặt ở mức trung bình khá. Hướng sử dụng các loại đất này là trồng các cây lương thực, thực phẩm như lúa, ngô, khoai và các loại cây công nghiệp ngắn ngày.
Nhóm đất sa phiến thạch: 17.689,32 ha, chiếm 50% diện tích tự nhiên, chủ yếu nằm ở vùng gò đồi, ở phía Tây quốc lộ 1A, bao gồm các xã: Triệu Thượng, Triệu Ái, Triệu Giang. Thành phần cơ bản chủ yếu là vỏ phong hóa mác-ma, ba-giơ trên vỏ phong hoá trầm tích, sa phiến thạch. Khu vực này có thể phát triển trồng trọt hoặc mô hình trồng rừng kết hợp chăn nuôi.
Nhóm đất cát và cồn cát ven biển: 6.904 ha, chiếm 20% diện tích tự nhiên, chủ yếu tập trung ở các xã ven biển như: Triệu An, Triệu Vân, Triệu Lăng, Triệu Trạch, Triệu Sơn. Hướng phát triển của vùng này là trồng rừng và trồng một số loại cây lương thực, thực phẩm ngắn ngày như: rau, khoai, lạc, đỗ, vừng, dâu, tằm,…
Tài nguyên rừng:
Diện tích đất lâm nghiệp của huyện là khoảng 14.575,2 ha, chiếm 41,3% diện tích đất tự nhiên. Triệu Phong là một trong số huyện có diện tích đất lâm nghiệp lớn nhất của tỉnh Quảng Trị. Diện tích rừng trồng chiếm tỷ lệ lớn (chiếm 95.9% với 13.982 ha). Đáng chú ý là diện tích rừng trồng đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.
Rừng trồng đang được phát triển mạnh ở các xã: Triệu Ái, Triệu Thượng, Triệu Sơn, Triệu An, Triệu Trạch, Triệu Vân, Triệu Lăng với các loại cây chủ yếu là thông, bạch đàn, keo lai. Đây là vùng nguyên liệu lớn cung cấp cho ngành công nghiệp chế biến gỗ, nhựa thông,…phát triển trong thời gian tới.
Rừng tự nhiên, hiện nay đang được huyện đưa vào khoanh nuôi, bảo vệ phục hồi một cách tích cực.
Tài nguyên biển và ven biển:
Triệu Phong có chiều dài bờ biển 18 km, chạy dọc theo 3 xã Triệu An, Triệu Vân và Triệu Lăng. Vùng biển Quảng Trị nói chung và biển Triệu Lăng nói riêng là nơi trú ngụ của nhiều loại hải sản quý như: Các loại tôm, cua, cá hồng, cá mú, cá thu, cá nục, cá ngừ, mực ống, mực nang,…
Tiềm năng phát triển ngành nuôi trồng thủy sản của địa phương là khá lớn với diện tích đất, mặt nước có khả năng sử dụng nuôi trồng thủy, hải sản lên đến 5.640 ha, có thể nuôi được các loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như: tôm sú, tôm càng xanh, tôm he chân trắng, cua xanh và một số loại cá là nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến.
Ngoài tiềm năng biển nói trên, huyện còn có lợi thế so sánh đặc biệt, đó là có cảng Cửa Việt, bãi tắm Triệu Lăng và đặc biệt là có trục đường ven biển nối với các tỉnh miền Trung, mở ra những cơ hội phát triển rất lớn về du lịch, kinh tế biển và các ngành dịch vụ khác.
Tài nguyên nước:
Triệu Phong có hệ thống sông, ngòi, ao, hồ, nguồn nước ngầm khá đa dạng:
Sông ngòi: Hệ thống sông Thạch Hãn với tổng chiều dài 150km đóng vai trò hết sức quan trọng đối với hệ thống thủy lợi cũng như giao thông vận tải thủy của địa phương. Ngoài sông Thạch Hãn, còn có sông Vĩnh Định, Vĩnh Phước,… Các con sông này ngoài việc cung cấp nước tưới, tiêu cho nông nghiệp, hàng năm lượng phù sa do con sông này bồi đắp đã góp phần bổ sung thêm độ phì nhiêu cho đất góp phần gia tăng năng suất và sản lượng của các giống cây trồng, là những tiềm năng phát triển kinh tế đáng kể của Triệu Phong.
Nguồn nước ao hồ: Trên địa bàn có một số hồ, đập quan trọng có ý nghĩa trữ nước phục vụ cho phát triển sản xuất và đời sống dân sinh đồng thời góp phần cải tạo môi trường như: Đập dâng Nam Thạch Hãn, đập ngăn mặn Việt Yên, hồ Triệu Thượng I, Triệu Thượng II, đập dâng Bà Huyện, hồ Ái Tử,…
Nguồn nước ngầm: Nguồn nước ngầm khá phong phú, chất lượng khá tốt, riêng vùng ven biển nhiều nơi bị nhiễm mặn, một số vùng bị phân hoá.
Với trữ lượng nước mặt và nước ngầm như trên, nguồn nước của Triệu Phong hoàn toàn có thể đáp ứng các điều kiện để sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trên địa bàn huyện.
Tài nguyên khoáng sản:
Trên địa bàn huyện Triệu Phong, nguồn khoáng sản chủ yếu là khoáng sản thuộc nhóm phi kim loại như:
Silicat: Trữ lượng cấp P2 91 triệu tấn, phân bố chủ yếu tại 2 xã Triệu Vân và Triệu Trạch, có trữ lượng tài nguyên dự tính 90.921.849 tấn, có độ mịn hạt 0,1-1mm, thành phần chủ yếu SiO2 chiếm trên 99%, làm nguyên liệu sản xuất thuỷ tinh dân dụng và kỹ thuật.
Cát, cuội, sỏi, đá khí: Mỏ (cát, cuội, sỏi) phân bố dọc theo khu vực sông Thạch Hãn khu vực các xã Triệu Long, Triệu Giang, Triệu Thuận. Ngoài ra, còn có một số điểm Lập Thạch, Trà Liên Đông chưa được tìm kiếm đánh giá. Mỏ đá Thượng Phước, mỏ khí CO2 ở Triệu Đại cũng là một trong những tài nguyên rất có giá trị của Triệu Phong.
Sét gạch ngói: Trữ lượng nhỏ, phân bố rải rác (các mỏ Nhan Biều dự tính là 5,41 m3. Triệu Đại được đánh giá là có triển vọng).
Ngoài ra, theo nhận định của đoàn khảo sát địa chất thì điểm Titan (ziricon) Nam Cửa Việt tuy chưa được đánh giá nhưng trên cơ sở phân tích đặc điểm của vùng các chuyên gia cho rằng là điểm Titan có triển vọng.
Theo đánh giá của các chuyên gia, tài nguyên khoáng sản trên địa bàn huyện có trữ lượng không lớn, song đó cũng là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp phục vụ nhu cầu xây dựng tại huyện và cả tỉnh Quảng Trị.
THAM KHẢO THÊM: