Nam Giang không chỉ đóng vai trò quan trọng về mặt địa lý và quốc phòng mà còn mang trong mình tiềm năng phát triển kinh tế và văn hóa to lớn xứng đáng là một điểm sáng trong sự phát triển bền vững của tỉnh Quảng Nam. Bài viết dưới đây cung cấp thông tin hữu ích về Bản đồ, xã phường thuộc huyện Nam Giang (Quảng Nam).
Mục lục bài viết
1. Bản đồ, xã phường thuộc huyện Nam Giang (Quảng Nam):
2. Các xã phường thuộc huyện Nam Giang (Quảng Nam):
Huyện Nam Giang có 12 đơn vị hành chính cấp phường xã. Trong đó bao gồm 1 thị trấn, 11 xã.
STT | Các xã phường thuộc huyện Nam Giang |
1 | Cà Dy |
2 | Thị trấn Thạnh Mỹ |
3 | Chà Vàl |
4 | Chơ Chun |
5 | Đắc Pre |
6 | Đắc Pring |
7 | Đắc Tôi |
8 | La Dêê |
9 | La Êê |
10 | Tà Bhing |
11 | Tà Pơơ |
12 | Zuôih |
Lịch sử hình thành các xã phường thuộc huyện Nam Giang (Quảng Nam):
Tháng 1 năm 1948, Ủy ban Kháng chiến – Hành chính tỉnh Quảng Nam quyết định tách các làng dân tộc miền núi thuộc huyện Đại Lộc để lập châu Bến Giằng. Đến tháng 6 năm 1949, châu Bến Giằng được đổi thành huyện Bến Giằng và sau đó rút gọn tên thành huyện Giằng. Bến Giằng vốn là tên một vùng đất nằm ở ngã ba nơi sông Thanh hợp lưu với sông Vu Gia (nay thuộc xã Cà Dy). Nơi đây có bãi cát phẳng làm bến đậu cho ghe thuyền gọi là bến Giằng Xay và sau được gọi tắt thành bến Giằng.
Sau năm 1975, huyện Giằng thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng gồm 9 xã: Cà Dy, Chà Vàl, Đắc Pre, Đắc Pring, La Dêê, La Êê, Tà Bhing, Zơ Nông và Zuôih.
Ngày 23 tháng 9 năm 1981, xã Zơ Nông được giải thể, thị trấn Thạnh Mỹ được thành lập trên phần đất của xã này và hai thôn còn lại được sáp nhập vào xã Cà Dy.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, khi tỉnh Quảng Nam được tái lập thì huyện Giằng chính thức thuộc tỉnh này. Đến ngày 16 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 71/1999/NĐ-CP về việc đổi tên huyện Giằng thành huyện Nam Giang.
Ngày 10 tháng 1 năm 2011, theo Nghị quyết 03/NQ-CP của Chính phủ, ba xã mới được thành lập:
- Xã Chơ Chun được tách ra từ 10.950 ha đất và 964 người của xã La Êê.
- Xã Đắc Tôi được tách từ 6.900 ha đất và 813 người của xã La Dêê.
- Xã Tà Pơơ được hình thành từ 9.370 ha đất và 719 người của xã Tà Bhing cùng 8.193,91 ha đất và 313 người của xã Zuôih.
Hiện nay, huyện Nam Giang có 1 thị trấn và 11 xã trực thuộc.
3. Vị trí địa lý, kinh tế – xã hội của các xã phường thuộc huyện Nam Giang (Quảng Nam):
3.1. Vị trí địa lý của các xã phường thuộc huyện Nam Giang (Quảng Nam):
Huyện Nam Giang nằm ở phía tây tỉnh Quảng Nam sở hữu vị trí địa lý chiến lược với ranh giới tự nhiên và hành chính rõ rệt:
- Phía Bắc: tiếp giáp huyện Đông Giang và Tây Giang, nơi có nhiều nét tương đồng về văn hóa dân tộc và điều kiện địa lý.
- Phía Tây: giáp nước bạn Lào với đường biên giới dài khoảng 70 km không chỉ là tuyến phòng thủ quan trọng mà còn mở ra nhiều cơ hội giao lưu văn hóa và kinh tế quốc tế.
- Phía Nam: giáp huyện Phước Sơn và huyện Đăk Glei thuộc tỉnh Kon Tum, vùng đất giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên và lâm nghiệp.
- Phía Đông: giáp các huyện Đại Lộc và Quế Sơn góp phần kết nối huyện với các trung tâm kinh tế, văn hóa của tỉnh Quảng Nam.
Với diện tích 1.836 km², Nam Giang không chỉ là huyện lớn nhất của tỉnh Quảng Nam mà còn là một trong những đơn vị hành chính rộng lớn của khu vực miền Trung. Năm 2019, toàn huyện có 7.265 hộ dân với tổng dân số đạt 26.123 người. Dân cư phân bố không đồng đều giữa thành thị và nông thôn tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Khu vực thành thị có 2.185 hộ với 7.616 người, chiếm 29% tổng dân số, trong khi 71% còn lại thuộc khu vực nông thôn với 5.080 hộ và 18.507 người. Mật độ dân số trung bình chỉ đạt 14 người/km² đã phản ánh đặc điểm dân cư thưa thớt và đặc biệt ở các vùng núi cao – nơi điều kiện sinh sống còn khó khăn.
Về thành phần dân tộc, huyện Nam Giang là nơi hội tụ của nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số với bản sắc văn hóa độc đáo. Đông nhất là người Cơ Tu với 3.215 hộ chiếm phần lớn dân số của huyện và tiếp đến là người Giẻ Triêng với 1.131 hộ và người Kinh với 1.076 hộ. Ngoài ra, các dân tộc khác như Xơ Đăng, Bh’noong, Tày cũng góp phần làm nên sự đa dạng văn hóa với tổng cộng 108 hộ. Những cộng đồng này sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp, khai thác lâm sản và chăn nuôi, đồng thời vẫn gìn giữ những phong tục tập quán truyền thống như lễ hội, trang phục và nghệ thuật dân gian.
Nhìn chung, Nam Giang không chỉ đóng vai trò quan trọng về mặt địa lý và quốc phòng mà còn mang trong mình tiềm năng phát triển kinh tế và văn hóa to lớn xứng đáng là một điểm sáng trong sự phát triển bền vững của tỉnh Quảng Nam.
3.2. Kinh tế – xã hội của các xã phường thuộc huyện Nam Giang:
Kinh tế:
Huyện Nam Giang nằm ở khu vực phía tây tỉnh Quảng Nam sở hữu nhiều tiềm năng kinh tế nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và vị trí địa lý thuận lợi. Một trong những tài nguyên quan trọng nhất của huyện là vàng sa khoáng. Hiện nay, các đơn vị được cấp phép đang triển khai thăm dò và khai thác đã góp phần tạo nguồn thu đáng kể cho địa phương. Trữ lượng vàng sa khoáng tuy chưa được khai thác toàn diện nhưng đã trở thành nguồn lực kinh tế tiềm năng, hứa hẹn thúc đẩy sự phát triển trong tương lai.
Bên cạnh đó, tài nguyên đá vôi tại Thạnh Mỹ cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp. Nhà máy xi măng Thạnh Mỹ được xây dựng và đưa vào sử dụng đã trở thành một trong những cơ sở sản xuất lớn nhất khu vực. Việc khai thác đá vôi và phát triển công nghiệp xi măng không chỉ giúp tăng thu ngân sách mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương góp phần nâng cao đời sống của người dân.
Huyện Nam Giang còn có lợi thế lớn về thủy điện nhờ hệ thống sông suối chằng chịt. Các công trình thủy điện như Sông Bung 2, Sông Bung 4, Sông Bung 5 và Sông Bung 6 đã được xây dựng và vận hành ổn định tạo nguồn năng lượng tái tạo quan trọng cho tỉnh Quảng Nam và các khu vực lân cận. Những nhà máy này không chỉ cung cấp điện năng mà còn góp phần tạo ra hạ tầng giao thông và thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương mang lại lợi ích lâu dài cho cộng đồng dân cư.
Về mặt nông – lâm nghiệp, năm 2012 giá trị sản xuất của huyện đạt 190.650,373 triệu đồng thể hiện vai trò then chốt của ngành này trong cơ cấu kinh tế địa phương. Với đặc thù là huyện miền núi, Nam Giang tập trung phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững và khai thác hợp lý tài nguyên rừng. Đồng thời, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp cũng đạt giá trị sản xuất 28.614,1 triệu đồng đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển toàn diện của huyện.
Y tế
Hệ thống y tế tại Nam Giang đã có bước phát triển rõ rệt với mạng lưới 12 trạm y tế xã đảm bảo chăm sóc sức khỏe cơ bản cho toàn bộ người dân trong huyện. Tổng số cán bộ y tế hiện có là 137 người trong đó 86 người là nữ cho thấy sự tham gia tích cực của phụ nữ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Hệ thống y tế tại huyện không ngừng được nâng cao chất lượng góp phần quan trọng vào việc chăm sóc sức khỏe cho người dân, đặc biệt là ở các vùng sâu vùng xa.
Giáo dục
Nam Giang tự hào với hệ thống giáo dục ngày càng hoàn thiện gồm 28 cơ sở giáo dục công lập từ bậc mầm non đến trung học phổ thông. Hai trường trung học phổ thông nổi bật của huyện là Tố Hữu và Nguyễn Văn Trỗi đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực trẻ, nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển nhân lực cho địa phương.
Các trường học trên địa bàn không chỉ tập trung vào việc giảng dạy kiến thức văn hóa mà còn chú trọng phát triển kỹ năng sống, giá trị đạo đức và tinh thần đoàn kết cộng đồng cho học sinh. Điều này giúp thế hệ trẻ Nam Giang không chỉ giỏi về kiến thức mà còn sẵn sàng đóng góp vào sự phát triển của huyện trong tương lai. Chính quyền huyện cũng đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư cơ sở vật chất cho các trường học ở vùng sâu vùng xa.
Tổng thể, Nam Giang không chỉ là một huyện giàu tiềm năng về tài nguyên mà còn đang trên đà phát triển toàn diện về kinh tế, y tế và giáo dục, tạo nền tảng vững chắc cho một tương lai phát triển bền vững.
THAM KHẢO THÊM: