Dầu Tiếng là một huyện nằm ở phía tây bắc tỉnh Bình Dương, thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là một địa phương nổi tiếng với hồ Dầu Tiếng, một công trình thủy lợi lớn nhất khu vực Đông Nam Á, cùng các giá trị văn hóa, lịch sử và kinh tế quan trọng. Mời các bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây với chủ đề Bản đồ, xã phường thuộc huyện Dầu Tiếng (Bình Dương).
Mục lục bài viết
1. Bản đồ hành chính huyện Dầu Tiếng (Bình Dương):
2. Danh sách xã, phường thuộc huyện Dầu Tiếng (Bình Dương)?
Huyện Dầu Tiếng có 12 đơn vị hành chính cấp phường xã. Trong đó bao gồm 1 thị trấn, 11 xã.
Số thứ tự | Danh sách xã, phường |
1 | Thị trấn Dầu Tiếng (huyện lỵ) |
2 | Xã An Lập |
3 | Xã Định An |
4 | Xã Định Hiệp |
5 | Xã Định Thành |
6 | Xã Long Hòa |
7 | Xã Long Tân |
8 | Xã Minh Hòa |
9 | Xã Minh Tân |
10 | Xã Minh Thạnh |
11 | Xã Thanh An |
12 | Xã Thanh Tuyền |
3. Giới thiệu chung về huyện Dầu Tiếng (Bình Dương):
Vị trí địa lý:
Huyện nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bình Dương, có địa giới hành chính như sau:
-
Phía Bắc và Đông Bắc tiếp giáp với tỉnh Bình Phước.
-
Phía Đông tiếp giáp với huyện Bàu Bàng.
-
Phía Đông Nam tiếp giáp với thị xã Bến Cát.
-
Phía Tây và Tây Nam tiếp giáp với hồ Dầu Tiếng và tỉnh Tây Ninh.
-
Phía Nam tiếp giáp với Thành phố Hồ Chí Minh.
Diện tích, dân số:
Huyện Dầu Tiếng có tổng diện tích đất tự nhiên hơn 721,10 km² và dân số khoảng 130.813 người (năm 2021),trong đó thành thị có 22.239 người (17%), nông thôn có 108.574 người (83%). Mật độ dân số đạt khoảng 181 người/km².
goài ra, có 18 dân tộc thiểu số sinh sống tại các xã, thị trấn (tập trung nhiều nhất ở Minh Hòa, Minh Tân), gồm 955 hộ với 2.967 khẩu, chiếm khoảng 2,68% dân số huyện(Khơme, Chăm, Tày, Nùng, STiêng, Châu ro, Mường, Thái, Sán dìu, Êđê,…) Có 05 tôn giáo được Nhà nước công nhận đang hoạt động, đó là: Phật giáo, Cao đài, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo. Nhìn chung hoạt động của các tôn giáo ổn định, trật tự an toàn xã hội trong vùng có đông đồng bào tôn giáo được đảm bảo. Các chức sắc tôn giáo, đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số cùng với nhân dân sống hòa thuận, đa số có đời sống kinh tế phát triển khá, tham gia xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Kinh tế:
Kinh tế của huyện Dầu Tiếng chủ yếu dựa vào nông nghiệp và công nghiệp.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, huyện Dầu Tiếng có diện tích đa tạ canh tác khá lớn và được chia thành hai vùng sản xuất chính là vùng đồng bằng sông Sài Gòn và vùng Tây Nguyên. Đồng bằng sông Sài Gòn là nơi có nhiều diện tích lớn trồng lúa, rau củ, đậu phụng, hồ, tiêu,… Trong khi đó, vùng Tây Nguyên là nơi trồng cà phê, điều, cao su, trái cây như xoài, bưởi, chôm chôm,…
Ngoài ra, huyện cũng có một số diện tích nhỏ trồng cây ăn quả như nhãn, mít, dừa,…
Trong lĩnh vực công nghiệp, huyện Dầu Tiếng có nhiều khu công nghiệp và khu chế xuất như Khu công nghiệp Dầu Tiếng, Khu công nghiệp Chế biến gỗ, Khu công nghiệp Bàu Bàng,… Đây là những khu công nghiệp đa ngành, sản xuất các mặt hàng như giày dép, may mặc, điện tử, gỗ, sản phẩm cao su, sản phẩm bao bì và các sản phẩm nhựa. Ngoài ra, huyện cũng có nhiều khu du lịch sinh thái như Khu du lịch Sinh Thái Núi Cậu, Suối Trúc, Lòng hồ Dầu Tiếng,…
Công tác đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội luôn được quan tâm, phục vụ cho nhu cầu phát triển 100%. Các tuyến đường chính (do huyện quản lý) được nhựa hóa, trên 85% các tuyến đường giao thông nông thôn, giao thông nội đồng các xã được cứng hóa bằng sỏi đỏ. Các cơ sở y tế, trung tâm văn hóa thông tin – thể thao của huyện và các xã được đầu tư xây dựng đạt chuẩn, trụ sở làm việc các cơ quan từ huyện đến xã được đầu tư tương đối hoàn chỉnh, đáp ứng nhu cầu làm việc cho cán bộ và lực lượng vũ trang.
Tổng quan, kinh tế của huyện Dầu Tiếng đang có sự phát triển vượt bậc và đóng góp đáng kể vào nền kinh tế của tỉnh Bình Dương cũng như cả nước.
4. Điều kiện tự nhiên của huyện Dầu Tiếng (Bình Dương):
Địa hình:
Địa hình của huyện Dầu Tiếng gò đồi nhấp nhô, lượn thoải dần về phía Nam. Phía Bắc có dãy Núi Cậu, tổ hợp của hai ngọn Núi Ông và Tha La. Có một số khu vực núi đá vôi nhỏ tại các khu vực phía Đông và Nam của huyện.
Ngoài ra, địa hình của Huyện Dầu Tiếng còn bao gồm các vùng đất trũng, đồi núi và đất canh tác phù sa. Đây là địa hình rất thuận lợi cho việc trồng trọt và sản xuất nông nghiệp.
Sông ngòi:
Huyện Dầu Tiếng có một số con sông chính bao gồm sông Sài Gòn và Thị Tính. Sông Sài Gòn chảy qua Dầu Tiếng ở phía Tây và Tây Nam với chiều dài khoảng 50 km, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Dầu Tiếng với Tây Ninh, giữa Dầu Tiếng với Củ Chi (Thành phố Hồ Chí Minh) và sau đó đổ vào sông Đồng Nai ở Tân Thuận Đông. (Trong kháng chiến chống Mỹ, sông Sài Gòn trở thành “sông gạo và máu” của cán bộ, chiến sĩ ta. Nơi ghi dấu biết bao chiến công cùng sự hy sinh anh dũng của bộ đội và nhân dân trong vận chuyển lương thực-vũ khí cho cho kháng chiến). Sông Thị Tính nằm ở phía Đông huyện Dầu Tiếng, bắt nguồn từ Căm Xe chảy qua Bến Cát rồi đổ vào sông Sài Gòn ở Cầu Ông Cộ. Hai dòng sông trên cung cấp nguồn nước, mang phù sa bồi đắp cho cánh đồng ở một số xã và điều tiết khí hậu cho địa phương.
Huyện cũng có nhiều hồ như: hồ Cần Nôm, hồ Dầu Tiếng,… đặc biệt là Hồ Dầu Tiếng – là một trong những hồ nước nhân tạo lớn nhất của Việt Nam và Đông Nam Á với diện tích mặt nước 2.560 ha, dung tích chứa trên 1,5 tỷ m³ nước, được sử dụng cho mục đích lưu trữ nước và phát triển kinh tế. Hồ cung cấp nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp, mang lợi nhiều lợi ích phát triển kinh tế không chỉ cho huyện Dầu Tiếng mà còn nhiều địa phương khác (tỉnh Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Long An).
Khí hậu:
Nằm trong khu vực gió mùa nhiệt đới Đông Nam Bộ, Dầu Tiếng có chung đặc điểm là nắng nóng kéo dài và mưa nhiều. Khí hậu chia thành hai mùa rõ rệt là mùa mưa (thường bắt đầu từ tháng 5 và kéo dài đến tháng 10) và mùa khô (thường bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 4). Tuy nhiên, khí hậu ở đây tương đối ôn hòa, ít thiên tai, bão lụt.
Thổ nhưỡng:
Chủ yếu là đất xám nâu và đất xám phù hợp trồng các loại cây công nghiệp như cao su, điều và cây công nghiệp ngắn ngày.
5. Văn hóa – xã hội của huyện Dầu Tiếng (Bình Dương):
Hệ thống trường lớp, hiện nay có 25/51 trường được xây dựng lầu hóa và 32/51 trường đạt chuẩn quốc gia. Các cơ sở khám, chữa bệnh từ huyện đến các xã, thị trấn được xây dựng mới, nâng cấp và tu sửa, trang thiết bị khám, chữa bệnh được đầu tư bổ sung, tổng số giường bệnh 322 giường, công suất sử dụng giường bệnh đạt 88,8%. Công tác phát triển văn hóa, thông tin, thể thao luôn được quan tâm đầu tư đúng mức, nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa và nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Hàng năm tổ chức hơn 100 buổi biểu diễn văn nghệ, chiếu phim lưu động phục vụ các tầng lớp nhân dân trong huyện, tổ chức nhiều giải thể thao cấp huyện và tham dự các giải cấp tỉnh đạt nhiều thành tích. Toàn huyện có 10 di tích văn hóa đã được xếp hạng, trong đó có 01 di tích cấp quốc gia, 09 di tích văn hóa cấp tỉnh.
Huyện còn hực hiện tốt các chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng, xây dựng và sửa chữa hơn 2.047 căn nhà tình nghĩa, nhà tình thương, nhà đại đoàn kết; giải quyết việc làm cho trên 6.500 lao động; 100% người nghèo, người bị nhiễm chất độc hóa học, cán bộ kháng chiến, người cao tuổi được cấp thẻ Bảo hiểm y tế, tỷ lệ hộ nghèo hiện nay giảm.
Tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện luôn giữ vững, ổn định, nhất là trong các dịp lễ, tết, các đợt cao điểm, các sự kiện chính trị lớn của đất nước và địa phương. Công tác ngăn ngừa, đấu tranh trấn áp các loại tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội; tai nạn giao thông,… luôn được chú trọng và thực hiện đạt hiệu quả. Thường xuyên phát động đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ Quốc”, nhân rộng các mô hình phòng, chống tội phạm,… từ đó góp phần giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện.
Hiện nay Đảng bộ huyện Dầu Tiếng có 52 tổ chức cơ sở đảng. Hàng năm, kết quả phân loại có trên 85% tổ chức cơ sở đảng đạt “Trong sạch vững mạnh”, trên 90% đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đảng bộ huyện hàng năm đều được công nhận Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở đã triển khai nhiều hoạt động đoàn kết, tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương xã hội, tham gia xây dựng đảng, chính quyền đạt nhiều kết quả cao, thực hiện tốt công tác phát triển đoàn viên, hội viên, tính đến nay đã tập hợp được trên 60.000 đoàn viên, hội viên.
THAM KHẢO THÊM: