Thị xã Kinh Môn thuộc vùng bán sơn địa, một dãy núi đất trong cánh cung Đông Triều làm xương sống của thị xã. Về núi non, Kinh Môn có cảnh trí tương đối giống Chí Linh, nhưng Kinh Môn còn có những núi đá xanh rải rác, các dòng sông bao bọc và những cánh đồng rộng lớn. Bài viết dưới đây cung cấp Bản đồ, các xã phường thuộc thị xã Kinh Môn (Hải Dương).
Mục lục bài viết
1. Bản đồ hành chính thị xã Kinh Môn (Hải Dương):
2. Thị xã Kinh Môn (Hải Dương) có bao nhiêu xã phường?
Thị xã Kinh Môn có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 14 phường và 9 xã.
STT | Danh sách các xã phường thuộc thị xã Kinh Môn (Hải Dương) |
1 | Phường An Lưu |
2 | Xã Bạch Đằng |
3 | Phường Thất Hùng |
4 | Xã Lê Ninh |
5 | Xã Hoành Sơn |
6 | Phường Phạm Thái |
7 | Phường Duy Tân |
8 | Phường Tân Dân |
9 | Phường Minh Tân |
10 | Xã Quang Thành |
11 | Xã Hiệp Hòa |
12 | Phường Phú Thứ |
13 | Xã Thăng Long |
14 | Xã Lạc Long |
15 | Phường An Sinh |
16 | Phường Hiệp Sơn |
17 | Xã Thượng Quận |
18 | Phường An Phụ |
19 | Phường Hiệp An |
20 | Phường Long Xuyên |
21 | Phường Thái Thịnh |
22 | Phường Hiến Thành |
23 | Xã Minh Hòa |
3. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thị xã Kinh Môn:
3.1. Vị trí địa lý:
Thị xã Kinh Môn nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 33 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 91 km về phía Đông Bắc, vị trí địa lý:
- Phía Đông giáp huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng;
- Phía Tây giáp thành phố Chí Linh và huyện Nam Sách;
- Phía Nam giáp huyện Kim Thành và huyện An Dương, thành phố Hải Phòng;
- Phía Bắc và đông bắc giáp thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Sông ngòi:
Kinh Môn là thị xã nằm vùng bán sơn địa, được bao bọc xung quanh và chia cắt bởi nhiều con sông lớn thuộc hệ thống sông Thái Bình như: Sông Kinh Thầy, sông Đá Vách, sông Kinh Môn bao quanh và các con sông nhỏ như: Sông Đò Than, sông Nguyễn Luân,… Do đó việc giao thông đi lại với các địa phương trong và ngoài thị xã được kết nối bằng rất nhiều cây cầu lớn như: Cầu An Thái (phường Long Xuyên), cầu Đá Vách, Hoàng Thạch (phường Minh Tân), hai cầu mới đưa vào sử dụng là cầu Triều (phường Thất Hùng), cầu Mây (xã Thăng Long) và cầu Dinh (phường Thái Thịnh), một số cây cầu đang được phê duyệt và xây dựng trong thời gian tới như cầu Vạn, cầu Bãi Mạc,… và nhiều bến phà, đò ngang như: Đò Vải (xã Lê Ninh), đò Trạm (xã Bạch Đằng), đò Nống (phường Hiến Thành),…
3.3. Địa hình:
Địa hình có dãy núi Kinh Môn chạy dọc thị xã kéo dài từ các xã Quang Thành, Lê Ninh đến phường An Lưu và khu vực đồi núi thuộc 5 phường phía Bắc sông Kinh Thầy. Điển hình với một số điểm cao của địa hình: Núi Sấu cao 111 mét (giữa hai xã Quang Thành và Lê Ninh), núi Vu cao 191 mét (giữa hai xã Hiệp Hòa và Lê Ninh), núi Ngang cao 143 mét (phường Tân Dân), núi Thần cao 155 (phường Phú Thứ) và đỉnh núi cao nhất thị xã là núi An Phụ cao 244 mét (phường An Sinh).
3.4. Khí hậu:
Khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa trung bình 1400 – 1600 mm thuộc loại trung bình dưới so cùng các khu vực khác ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 9 với tổng lượng mưa đạt gần 80% lượng mưa cả năm. Nhiệt độ trung bình năm đạt 23,2 độ C.
4. Lịch sử hình thành và phát triển của thị xã Kinh Môn (Hải Dương):
Ngày xưa, khi nữ tướng Lê Chân lập trang An Biên khai phát khu vực thượng nguồn sông Cấm ngày nay, chắc chắn Kinh Môn không xa biển.
Đến năm Quang Thuận thứ 10 (1469), Thừa tuyên Hải Dương có 4 phủ, 18 huyện thì phủ Kinh Môn là một trong 4 phủ, quản 7 huyện: Hiệp Sơn, Đông Triều, Kim Thành, An Lão, An Dương, Nghi Dương và Thủy Đường. Đối chiếu với bản đồ ngày nay, Kinh Môn chỉ còn là danh chỉ huyện Giáp Sơn xưa, trừ các huyện Kim Thành, Đông Triều cơ bản là đất cũ, các huyện còn lại chính là nằm lọt trong phần lớn thành phố Hải Phòng ngày nay.
Vùng đất thuộc phủ Kinh Môn chắc chắn có một giai đoạn phát triển mạnh, vì nằm giữa Chí Linh quê gốc và Dương Kinh nơi đất căn bản của họ Mạc. Nhưng cuối triều Mạc, bắt đầu Lê Trung hưng phải gánh chịu nhiều cuộc tàn phá ghê gớm. Một phần do sự suy tàn của triều Mạc, một phần đây chính là địa điểm đường thủy nối Tây đô Thanh Hóa với Đông đô, cuộc chiến phò Lê và tồn Mạc đã làm cho cả vùng thành chiến địa.
Từ năm 1947 đến năm 1955, huyện Kinh Môn thuộc tỉnh Quảng Yên cũ. Năm 1955, huyện được trả về tỉnh Hải Dương. Năm 1968, Chính phủ quyết định sáp nhập 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng; lúc này huyện thuộc tỉnh Hải Hưng.
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, huyện Kinh Môn sáp nhập với huyện Kim Thành thành huyện Kim Môn. Đồng thời, xã Phúc Thành được đổi tên thành xã Phúc Thành B để phân biệt với xã Phúc Thành A, vốn là xã Phúc Thành thuộc huyện Kim Thành cũ.
Ngày 28 tháng 10 năm 1996, chuyển xã An Lưu thành thị trấn An Lưu.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Kim Môn thuộc tỉnh Hải Dương vừa tái lập.
Ngày 17 tháng 2 năm 1997, huyện Kinh Môn được tái lập từ huyện Kim Môn cũ, xã Phúc Thành B đổi lại tên cũ là xã Phúc Thành. Lúc này, huyện Kinh Môn có thị trấn An Lưu và 24 xã: An Phụ, An Sinh, Bạch Đằng, Duy Tân, Hiến Thành, Hiệp An, Hiệp Hòa, Hiệp Sơn, Hoành Sơn, Lạc Long, Lê Ninh, Long Xuyên, Minh Hòa, Minh Tân, Phạm Mệnh, Phú Thứ, Phúc Thành, Quang Trung, Tân Dân, Thái Sơn, Thái Thịnh, Thăng Long, Thất Hùng, Thượng Quận.
Ngày 3 tháng 6 năm 2004, chuyển 2 xã Minh Tân và Phú Thứ thành 2 thị trấn có tên tương ứng, đổi tên thị trấn An Lưu thành thị trấn Kinh Môn.
Khi đó, huyện Kinh Môn có 3 thị trấn: Kinh Môn (huyện lỵ), Minh Tân, Phú Thứ và 22 xã: An Phụ, An Sinh, Bạch Đằng, Duy Tân, Hiến Thành, Hiệp An, Hiệp Hòa, Hiệp Sơn, Hoành Sơn, Lạc Long, Lê Ninh, Long Xuyên, Minh Hòa, Phạm Mệnh, Phúc Thành, Quang Trung, Tân Dân, Thái Sơn, Thái Thịnh, Thăng Long, Thất Hùng, Thượng Quận.
Ngày 23 tháng 12 năm 2014, thị trấn Kinh Môn mở rộng (bao gồm 3 thị trấn: Kinh Môn, Minh Tân, Phú Thứ) được công nhận là đô thị loại IV.
Ngày 15 tháng 3 năm 2019, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 168/QĐ-BXD về việc công nhận đô thị Kinh Môn (gồm toàn bộ 3 thị trấn và 22 xã thuộc huyện Kinh Môn) là đô thị loại IV.
Ngày 11 tháng 9 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 768/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 2019). Theo đó:
- Thành lập thị xã Kinh Môn trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của của huyện Kinh Môn.
- Thành lập phường An Lưu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Kinh Môn.
- Thành lập 12 phường: An Phụ, An Sinh, Duy Tân, Hiến Thành, Hiệp An, Hiệp Sơn, Long Xuyên, Minh Tân, Phú Thứ, Tân Dân, Thái Thịnh, Thất Hùng trên cơ sở 12 xã, thị trấn có tên tương ứng.
- Thành lập phường Phạm Thái trên cơ sở hợp nhất 2 xã Phạm Mệnh và Thái Sơn.
- Thành lập xã Quang Thành trên cơ sở hợp nhất 2 xã Quang Trung và Phúc Thành.
Sau khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã; thành lập các phường, xã mới; thị xã Kinh Môn có 14 phường và 9 xã trực thuộc như hiện nay.
5. Tiềm năng du lịch của thị xã Kinh Môn (Hải Dương):
Kinh Môn nổi tiếng với Đền Cao – là nơi thờ cha Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và danh lam thắng cảnh động Kính Chủ – nơi có nhiều hang động đá vôi tuyệt đẹp và gắn với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Hải Dương cũng như của Việt Nam trong thời kỳ chống ngoại xâm.
Động Kính Chủ nằm trong quần thể núi đá xanh cách An Phụ vài ba cây số. Chắc rằng thời Lý, Kính Chủ là nơi trung tâm Phật giáo, trước khi các nhà tu hành phát hiện ra An Tử. Chính sử chép nơi đây có 49 hang động, lầu son gác tía. Lý Huệ Tông được nhà Trần cho tu ở đó, thực chất là an trí. Nay di tích này không còn nhiều, hầu như chỉ còn phế tích. Vấn đề của Kính Chủ cũng là vấn đề chung nan giải của cả nước. Theo truyền thuyết động Kính Chủ là cột trụ trời.
Khu vực đồi núi Kinh Môn còn có những di tích lịch sử và thắng cảnh được Nhà nước xếp hạng với đỉnh An Phụ có đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu – cha của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn; với động Kính Chủ có nhiều hang động tạo nên phong cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, nơi đây còn bút tích của danh nhân Phạm Sư Mạnh đề thơ “Đặng thạch môn sơn lưu đề”.
Đền Cả Hạ Chiểu (tên cũ Nghè Cả Hạ Chiểu) tọa lạc tại Khu Hạ Chiểu 3, Phường Minh Tân, Thị xã Kinh Môn, Hải Dương – Nơi tôn kính thờ tự Chúa Bà Năm Phương & Nhị vị Tướng Quân Trận Bạch Đằng do Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo cùng với Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông chỉ huy trước quân xâm lược Nguyên Mông (Đại Việt năm 1288). Tích xưa truyền lại, trong trận đánh đánh quân xâm lược Nguyên Mông, 02 vị tướng thời Trần hy sinh được an táng tại vị trí “Đầu rùa” khu vực Núi Đồn, nay thuộc Khu III Hạ Chiểu, Phường Minh Tân, Thị xã Kinh Môn.
Bên cạnh cung thờ 02 vị tướng quân thời Trần, Chúa Bà Năm Phương đã phù trợ Đức Thánh Trần Hưng Đạo đánh thắng giặc giặc Mông-Nguyên trên sông Bạch Đằng, khi ngài thắp hương khấn nguyện Chúa Bà Năm Phường trước khi đánh trận. Từ những ngày mới thành lập Đền thờ Nhị vị tướng quân thời Trần tại Đền Cả (trước đây là Nghè Cả), Chúa Bà Năm Phương báo mộng với Ban quản lý nhà Đền, với Cụ thủ nhang 104 tuổi (năm 2022) Chúa Bà hiển linh tại Đền và được tôn thờ tại Cung Mẫu của Đền Cả Hải Dương. Một trong những nơi rất linh thiêng, được nhân dân thập phương chiêm bái.
Những dãy núi đá Kinh Môn là nơi đã diễn ra các cuộc chiến đấu của ông cha ta chống giặc ngoại xâm như thời vua Trần Nhân Tông đã đóng quân ở núi Kính Chủ để chống quân Nguyên. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã diễn ra các cuộc chiến đấu rất oanh liệt của quân dân Kinh Môn tại các khu núi đá với các địa danh: Kính Chủ, Áng Sơn, Thung Sanh mãi mãi còn ghi đậm dấu tích kiên cường trong ký ức của người dân Kinh Môn.
THAM KHẢO THÊM: