Huyện Yên Thành là một huyện trung du nằm ở tỉnh Nghệ An, Việt Nam, có lịch sử hình thành từ năm 1837 khi được tách ra từ huyện Đông Thành, Phủ Diễn Châu. Bài viết dưới đây với chủ đề: Bản đồ, các xã phường thuộc huyện Yên Thành (Nghệ An) sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin tổng quan về huyện Yên Thành.
Mục lục bài viết
1. Bản đồ huyện Yên Thành (Nghệ An):
2. Huyện Yên Thành (Nghệ An) có mấy xã, phường?
Huyện Yên Thành có 39 đơn vị hành chính cấp phường xã, trong đó bao gồm 1 thị trấn, 38 xã.
STT | Danh sách xã, phường thuộc huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An |
1 | Thị trấn Yên Thành (huyện lỵ) |
2 | Xã Bắc Thành |
3 | Xã Bảo Thành |
4 | Xã Công Thành |
5 | Xã Đại Thành |
6 | Xã Đô Thành |
7 | Xã Đồng Thành |
8 | Xã Đức Thành |
9 | Xã Hậu Thành |
10 | Xã Hoa Thành |
11 | Xã Hồng Thành |
12 | Xã Hợp Thành |
13 | Xã Hùng Thành |
14 | Xã Khánh Thành |
15 | Xã Kim Thành |
16 | Xã Lăng Thành |
17 | Xã Liên Thành |
18 | Xã Long Thành |
19 | Xã Lý Thành |
20 | Xã Mã Thành |
21 | Xã Minh Thành |
22 | Xã Mỹ Thành |
23 | Xã Nam Thành |
24 | Xã Nhân Thành |
25 | Xã Phú Thành |
26 | Xã Phúc Thành |
27 | Xã Quang Thành |
28 | Xã Sơn Thành |
29 | Xã Tân Thành |
30 | Xã Tăng Thành |
31 | Xã Tây Thành |
32 | Xã Thịnh Thành |
33 | Xã Thọ Thành |
34 | Xã Tiến Thành |
35 | Xã Trung Thành |
36 | Xã Văn Thành |
37 | Xã Viên Thành |
38 | Xã Vĩnh Thành |
39 | Xã Xuân Thành |
3. Thông tin chung về huyện Yên Thành (Nghệ An):
Vị trí địa lý:
Huyện Yên Thành nằm ở trung tâm của tỉnh Nghệ An, một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam, trong tọa độ 18055′ đến 190 12′ vĩ độ Bắc và từ 105011 đến 105034’ kinh độ Đông.
Vị trí địa lý của huyện:
-
Phía Bắc của huyện Yên Thành tiếp giáp huyện Quỳnh Lưu.
-
Phía Đông của huyện Yên Thành tiếp giáp huyện Diễn Châu.
-
Phía Đông Nam của huyện Yên Thành tiếp giáp huyện Nghi Lộc.
-
Phía Nam của huyện Yên Thành tiếp giáp huyện Đô Lương.
-
Phía Tây của huyện Yên Thành tiếp giáp huyện Tân Kỳ.
Khí hậu:
Huyện Yên Thành nằm trong vùng khí hậu ẩm nhiệt đới gió mùa, điển hình cho miền Trung Việt Nam. Mùa hè ở đây thường nóng và khô với gió Tây Nam thổi mạnh, nhưng khi gió Đông Nam, còn được gọi là gió Nồm thổi vào, không khí trở nên mát mẻ và dễ chịu hơn. Huyện thường phải đối mặt với những cơn bão lớn vào mùa thu, trong khi mùa đông lại có gió Đông Bắc và mưa dầm kéo dài. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 1.500 – 1.700mm, huyện cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhiều cơn bão, đi kèm với mưa lớn, đôi khi lên tới trên 300 mm/ngày. Điều này đòi hỏi cần có những giải pháp đối phó với biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan để bảo vệ cuộc sống và sinh kế của người dân.
Địa hình:
Địa hình của Yên Thành khá đa dạng: Cả đồng bằng, trung du và miền núi đã cho thấy sự phong phú của cảnh quan tự nhiên tại đây. Huyện có địa hình tựa lòng chảo, ba phía Bắc, Tây, Nam đều là rừng núi và đồi thấp, ở giữa là phía Đông và vùng trũng tiếp giáp với huyện Diễn Châu với chiều dài gần 40 km từ Bắc xuống Nam, chiều rộng gần 35 km từ Đông sang Tây. Nơi gần bờ biển nhất là xã Đô Thành (6 km). Đỉnh Vàng Tâm với độ cao 544 m, là ngọn núi cao nhất huyện nằm ở phía Bắc xã Lăng Thành. Nơi thấp nhất là cánh đồng trũng dọc kênh Biên Hòa, xã Vĩnh Thành, cao 0,2 m so với mực nước biển. Phía Bắc huyện là dãy núi Bồ Bồ, phía Tây và Tây Nam là đồi núi, có các thung lũng, hang động tạo nên nhiều cảnh quan đẹp.
Hệ thống sông:
Hệ thống sông ở Yên Thành không nhiều và không có con sông nào lớn, hầu hết là các con sông ngắn và nhỏ. Sông Dinh bắt nguồn từ động Trọc (xã Quang Thành cũ) theo khe Cấy và một nhánh từ các làng Đồng Trổ, Đồng Mai theo khe Vằng, hợp lưu với nhau chảy qua xã Tràng Thành sang các làng Long Hồi, Tích Phúc xuống sông Điển. Sông Dền bắt nguồn từ động Huyệt chảy qua xã Phúc Thành, Kẻ Dền đổ xuống sông Sọt. Bàu Sừng bắt nguồn từ động Mồng Gà chảy về các làng Quỳ Lăng, Yên Mã, Thành Đạt, Tiên Bồng đổ xuống sông sở. Khe Nhà Trò, khe Mã Tổ bắt nguồn từ hòn Câu, hòn Sường chảy về các làng Phúc Lộc, Phúc Trạch, Thọ Trường, Lạc Thổ. Ở phía nam, do đồi núi trọc nên không có nguồn ánh sinh thủy chảy đều, chỉ có một số khe và bàu như khe Ngọng. bàu Mậu Long, bàu Chèn, bàu Liên Trì chảy về sông Vũ Giang rồi xuống sông Điển. Khe Cát chảy qua các làng Tràng Sơn, Lương Hội về sông Điển. Sông Điển chảy qua các xã Khánh Thành, Long Thành, Vĩnh Thành hợp lưu với cột Sọt, chảy về sông Bùng ra Lạch Vạn.
Hệ thống nông giang Bắc Nghệ An được khảo sát từ năm 1927 và tiến hành xây dựng trong những năm 1932 – 1937, đã đưa sông lam từ Bara Đô Lương về tưới cho phần lớn diện tích đồng bằng huyện Yên Thành.
Từ năm 1960 đến nay, đặc biệt là trong những năm kháng chiến chống Mỹ, huyện Yên Thành đã xây dựng được gần 200 hồ đập lớn, vừa và nhỏ để tưới cho vùng cao, chống úng cho vùng sâu, tưới khoa học cho vùng giữa thành ruộng thâm canh hai, ba vụ.
Diện tích và dân số:
Huyện có diện tích khoảng 551,92 km² và dân số vào khoảng 302.500 người. Yên Thành cũng là nơi có sự đa dạng về dân tộc, trong đó đa số là người Kinh và có một cộng đồng Thiên Chúa giáo đáng kể, chiếm khoảng 12% dân số.
Yên Thành có lịch sử lâu đời, được thành lập từ năm 1838, phản ánh sự phát triển lâu dài của khu vực này trong lịch sử Việt Nam. Đây là một huyện có tiềm năng phát triển kinh tế và du lịch, với nhiều di tích lịch sử và cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn.
4. Lịch sử hình thành đơn vị hành chính huyện Yên Thành (Nghệ An):
Huyện Yên Thành là vùng đất cổ đã có hàng nghìn năm lịch sử. Thuở các vua Hùng dựng nước, Yên Thành thuộc bộ Việt Thường (Việt Thường là một trong 15 bộ của nước Văn Lang).
Thời Bắc thuộc, Yên Thành được gọi là huyện Hàm Hoan, thuộc quận Cửu Chân đời Triệu, quận Cửu Đức đời Ngô, quận Đức Châu đời Lương, quận Nhật Nam đời Tùy, châu Nam Đức, Đức Châu rồi Hoan Châu đời Đường.
Năm Trinh Quán thứ nhất (627) đời Đường, Hoan Châu được chia thành Diễn Châu và Hoan Châu. Ly sở của Diễn Châu đóng ở làng Kẻ Sừng, xã Quỳ Lăng.
Buổi đầu thời kỳ độc lập, nhà Khúc (905 – 907), nhà Ngô (936 – 965), vùng Quỳ Lăng vẫn là trung tâm của Châu Diễn.
Thời Tiền Lê, sau khi lên làm vua, Lê Đại Hành đã phong cho hoàng tử Lê Long Toàn làm Đông Thành Vương và cử Long Toàn vào trấn trị Châu Diễm. Sau 15 năm làm Tri Châu và bảy năm xưng vua Ngân Tích Vương mà nhân dân thường gọi là vua Dền, Lê Long Toàn đã lấy vùng kẻ Dền – Công Trung – Tràng Thành làm Ly sở, xây dựng nơi đây thành trung tâm kinh tế, quân sự của Châu Diễn. Tên Đông Thành có từ thời Tiền Lê.
Thời nhà Trần, Yên Thành được gọi là Trấn Vọng Giang, là huyện Thổ Thành (thành đất). Thời nhà Hồ gọi phủ Linh Nguyên. Thời thuộc Minh gọi là huyện Đông Ngàn. Thời nhà Lê đến đầu đời Nguyễn gọi là huyện Đông Thành của phủ Diễn Châu.
Tên huyện Yên thành (một số tài liệu chép là huyện An Thành) được dựng đặt từ năm Minh Mệnh thứ 10 (1829). Tám năm sau, đến năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), chính thức cắt năm tổng Hoàng Trường, Vạn Phần, Thái Trạch, Quan Triều và Cự Lâm lập huyện Yên Thành. Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) tách tổng Cự Lâm về huyện Nghĩa Đường (tức huyện Nghĩa Đàn).
Năm Thành Thái thứ 10 (1898), chia lại thành hai huyện Yên Thành và Đông Thành. Huyện Yên Thành ở phía Tây, gồm các tổng Quỳ Trạch (tức tổng Thái Trạch), Quan Hóa (tức tổng Quan Triều), Vân Tụ (tức tổng Vân Lôi), Quan Trung và Vân Hội. Ly sở huyện Yên Thành chuyển về làng Phụng Luật (nay thuộc xã Hợp Thành).
Từ năm 1898 đến năm 1945, huyện Yên Thành có 5 tổng, 136 làng xã. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cắt các làng Xuân Lạc (Kẻ Năn), Phượng Kỷ (Kẻ Mưng), Yên Lương, Mỹ Hòa, Trịnh Sơn về huyện Anh Sơn; cắt các làng Trị Nội, Hội Yên về huyện Nghi Lộc. Sau năm 1955, cắt làng Cận Nghĩa Môn về huyện Quỳnh Lưu.
Hiện nay, huyện Yên Thành có 1 thị trấn và 38 xã.
THAM KHẢO THÊM: