Huyện Cư Jút là một huyện nằm ở phía bắc của tỉnh Đắk Nông, thuộc vùng Tây Nguyên của Việt Nam, được biết đến là một huyện có địa hình đa dạng với nhiều đồi núi và sông suối tạo nên cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và phong phú. Xin mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết sau Bản đồ, các xã phường thuộc huyện Cư Jút (Đắk Nông).
Mục lục bài viết
1. Bản đồ hành chính huyện Cư Jút (Đắk Nông):
2. Có bao nhiêu xã, phường thuộc huyện Cư Jút (Đắk Nông)?
Huyện Cư Jút có có 8 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị trấn Ea T’ling (huyện lỵ) và 7 xã: Cư Knia, Đắk D’rông, Đắk Wil, Ea Pô, Nam Dong, Tâm Thắng, Trúc Sơn.
Số thứ tự | Danh sách xã, phường |
1 | Thị trấn Ea T’ling (huyện lỵ) |
2 | Xã Cư Knia |
3 | Xã Đắk DRông |
4 | Xã Đắk Wil |
5 | Xã Ea Pô |
6 | Xã Nam Dong |
7 | Xã Tâm Thắng |
8 | Xã Trúc Sơn |
3. Giới thiệu chung về huyện Cư Jút (Đắk Nông):
Vị trí địa lý:
Huyện Cư Jút được thành lập theo Quyết định số 227/HĐBT, ngày 19/06/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Huyện Cư Jút nằm ở phía Bắc tỉnh Đắk Nông, có địa giới hành chính:
-
Phía Đông giáp thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk
-
Phía Tây giáp huyện Pechr Chenda, tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia
-
Phía Nam giáp huyện Đắk Mil và huyện Krông Nô
-
Phía Bắc giáp huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk
Huyện Cư Jút nằm trên trục đường quốc lộ 14, cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk) 20 km về phía Tây Nam và cách thị xã Gia Nghĩa 110 km nằm về phía Bắc tỉnh lỵ Đăk Nông, có 20 km đường biên giới giáp với Huyện Pecchamda – tỉnh MunDunKiri, vương quốc CamPuChia.
Diện tích, dân số:
Huyện Cư Jút có tổng diện tích đất tự nhiên hơn 723,26 km² và dân số khoảng 92.464 người (2021), mật độ dân số đạt khoảng 128 người/km².
Địa hình:
Địa hình của huyện thuộc vùng cao nguyên Tây Nguyên, có độ cao trung bình khoảng 800 đến 1.000 mét so với mực nước biển.
Huyện Cư Jút có nhiều dãy núi, đồi núi và thung lũng. Phần lớn diện tích huyện được phủ bởi rừng và cây trồng. Huyện có địa hình đồi núi đan xen với những thung lũng. Một số khu vực có độ cao trên 1.000 mét.
Tại đây, có nhiều con sông lớn chảy qua các thung lũng và đồi núi tạo nên những cảnh quan thiên nhiên đẹp mắt.
Hệ thống sông suối:
+ Cư Jút có dòng sông Sêrêpok chảy qua với hơn 40 km qua địa bàn huyện, sông có nhiều thác ghênh hùng vĩ, ấn chứa nhiều giai thoại, truyền thuyết. Huyện Cư Jút đã đưa vào khai thác du lịch Thác Trinh Nữ, cùng với Thác Gia Long – Dray Sáp – Trinh Nữ và Buôn Đôn đã tạo nên cụm du lịch liên hoàn giữa 2 tỉnh Đăk Lăk – Đăk Nông, bước đầu thu hút được khách du lịch trong và ngoài nước.
+ Bên cạnh đó còn có các điểm du lịch khác như: khu du lịch Hồ Trúc, Buôn văn hoá buôn cổ – Xã Tâm Thắng, khu du lịch sinh thái từ cầu 14 đến Thác Trinh Nữ, thuỷ điện Sêrêpok 3, Sêrêpok 4,… đã và đang được đầu tư thành khu du lịch trong tương lai.
Khí hậu:
Vùng Cư Jút chịu sự chi phối bởi kiến tạo địa chất của cao nguyên, địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Tây sang Đông, từ Nam đến Bắc, độ cao trung bình khoảng 330m. Lượng mưa trên địa bàn lớn, trung bình hàng năm từ 1.700-1.800mm, có nhiều sông suối nên địa hình chia cắt mạnh.
Cư Jút mang đặc điểm khí hậu của miền cao nguyên nhiệt đới gió mùa, quanh năm mát mẻ, có hai mùa mưa nắng rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm, là thời gian phát triển mạnh của các loại cây trồng. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể cộng với gió mùa Đông bắc làm tỉ lệ bốc hơi nước cao gây khô hạn, hệ thống thực vật kém phát triển. Nhiệt độ trung bình 23,4⁰C, độ ẩm trung bình 85%, số giờ nắng trung bình 2.288giờ/năm.
Chế độ nhiệt:
+ Nhiệt độ cao nhất trong năm: 27,8⁰C
+ Nhiệt độ thấp nhất trong năm: 14,3⁰C
+ Nhiệt độ trung bình năm: 23,4⁰C
+ Biên độ nhiệt ngày đêm: 10-15⁰C
+ Tổng tích ôn: 8.500 – 9.000oG
Chế độ gió: Hướng gió thịnh hành mùa mưa là Tây Nam, mùa khô là Đông Bắc.
Đất đai, thổ nhưỡng:
Trên địa bàn có 5 loại đất chính:
* Đất vàng nhạt:
Phát triển trên sản phẩm phong hóa bột kết (Fq), diện tích lớn nhất: 33.150ha chiếm tỷ lệ hơn 46%, phân bổ vùng phía Tây huyện trên địa bàn xã Đăk Wil, đây là loại đất được hình thành trên đá mẹ là phiến sét, thành phần cơ giới là thịt nhẹ, tầng dày nhỏ hơn 30cm, độ dốc thay đổi từ cấp II đến IV, rất nhiều đá lộ đầu thành cụm. Đối với loại đất này khi canh tác cần có biện pháp cải tạo đất thường xuyên, không khai hoang trong mùa mưa và canh tác luân canh, bảo đảm độ che phủ thực vật thường xuyên và hạn chế đến mức thấp nhất về xói mòn rửa trôi.
* Đất vàng trên phiến sét:
Feralit-Salit (Fs): 21.735ha chiếm 30,235% diện tích phân bổ chủ yếu trên địa hình núi cao tập trung thành dãy vùng trung tâm và rìa phía Bắc, phía Đông huyện, trên địa bàn nhiều xã: EaPô (Phía Bắc xã), ĐăkDrông, Tâm Thắng, EaTling, Trúc Sơn,… đây là đất được hình thành trên đá mẹ là phiến sét, phong hóa triệt để, thành phần cơ giới là thịt nặng, ít xốp, khi mất nước trở nên chai rắn, tầng dày 70 – 100cm, ít dốc ( cấp II, III), thảm thực vật được khai thác trồng cây, chủ yếu cây hàng năm.
* Đất đen trên đá Basalt và Tù (Rk):
Diện tích 14.374ha, chiếm xấp xỉ 20% diện tích tự nhiên, phân bổ ở các thung lũng vùng trung tâm (phía đông ĐăkWil, ĐăkDrông, Cư Knia), phát triển chủ yếu trên nền đá mẹ Basalt nên giàu các nguyên tố sắt, nhôm, calci, magiê, phospho, kali, natri, nhóm đất này có địa hình lượn sóng, rất giàu dinh dưỡng, có tầng dày thích hợp cho nhiều loại cây trồng.
* Đất nâu đỏ trên đá Basalt (Fk):
3.332ha diện tích khá thấp ( 3/244% diện tích), phân bố rải rác vùng phía Nam, là nhóm đất hình thành trên đá mẹ basalt nên giàu các nguyên tố sắt, nhôm, calci, magiê, kali, natri, đất tơi xốp, thành phần cơ giới thịt nặng đến trung bình, tầng dày từ 50 – 100cm, độ dốc cấp III, IV, đây là nhóm đất giàu mùn, dinh dưỡng cao nên thích hợp cho các loại cây công nghiệp dài ngày: cà phê, tiêu, cao su hoặc ngắn ngày như: lạc, đậu nành,…
* Đất thung lũng dốc tụ (D):
Diện tích nhỏ 297ha chiếm 0,413% diện tích, phân bố rải rác ven sông suối, được hình thành bởi quá trình bào mòn vận chuyển vật chất, thường bị ngập nước nên gây hóa, đất bị kết vón. Đất khá giàu mùn hữu cơ, đất thịt nhẹ ít thoát nước thích hợp cho cây trồng lương thực.
4. Văn hóa – xã hội huyện Cư Jút (Đắk Nông):
Văn hóa truyền thống:
Từ cội nguồn lịch sử, chủ nhân của miền đất Cư Jút là 2 dân tộc Êđê và M’Nông, cơ sở xã hội của dân tộc Êđê M’Nông là Buôn, hợp thành buôn là các gia đình theo chế độ mẫu hệ. Các gia đình trong buôn đều có quan hệ với nhau về thân tộc, thích tộc làm cho quan hệ cộng đồng buôn được duy trì khá chặt chẽ. Một số nét đặc trưng:
+ Về ăn mặc: Chủ yếu mặc đồ thổ cẩm tự dệt như khố, áo.
+ Về ăn uống: Rượu cần, cà đảng, cơm lam, gà nướng.
+ Về ở: Nhà sàn.
+ Sử thi của N’Rong, trường ca (khan) Đăm San, Xinh Nhã,…
+ Lễ hội: đâm trâu, múa rông chiêng, múa chiêng, múa cồng,…
+ Âm nhạc: Cồng, chiêng, đàn T’rưng, đinh năm, đàn đá,…
Văn hoá các dân tộc thiểu số khác:
+ Hát then (Tày, Nùng)
+ Dân ca, khua loóng (Thái)
+ Thổi khèn (Mông)
+ Múa xòe (Thái)
+ Lễ hội Lồng tồng (hội xuống đồng),…
Tôn giáo:
Có 3 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo và Tin lành (tín đồ: 26.190, chiếm 28,37% dân số). Hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường tự nguyện và đúng quy định pháp luật Nhà nước. Đến nay, toàn huyện có 9 điểm nhóm và 03 Chi hội sinh hoạt đạo Tin lành, 02 nhà thờ Giáo xứ và 05 nhà nguyện sinh hoạt đạo Công giáo, 03 Chùa và 02 Niệm Phật đường sinh hoạt đạo Phật. Tín đồ các đạo và dân cư không theo đạo cùng chung sống hòa đồng, tạo nên một cộng đồng đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ quê hương.
THAM KHẢO THÊM: