Việc nắm bắt tâm lý của trẻ nhỏ có vai trò cực kì quan trọng trong việc giảng dạy. Dưới đây là Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Tiểu học Module TH9 về chủ đề: Hướng dẫn, tư vấn cho học sinh tiểu học.
Mục lục bài viết
1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học:
Học sinh tiểu học ở lứa tuổi 6-11 tuổi, đây là giai đoạn các em có những đặc điểm tâm sinh lý đặc biệt. Có thể nói, đây là giai đoạn trẻ bước đầu hình thành phẩm chất đạo đức, nhân cách và các kỹ năng quan trọng. Ở độ tuổi này, trẻ đang học tiểu học. Ở độ tuổi này, trẻ có những đặc điểm riêng.
Nhìn chung, khi trẻ 6 tuổi, vào lớp 1 là thời điểm trẻ bắt đầu mở rộng các mối quan hệ xã hội. Các mối quan hệ phổ biến nhất ở độ tuổi này là mối quan hệ giữa học sinh và học sinh, mối quan hệ giữa học sinh và giáo viên, giáo viên trong trường và nhiều mối quan hệ khác. Học sinh tiểu học thường thích kết bạn và dần dần các em chủ động kết bạn mới.
Trẻ ở giai đoạn này rất giàu trí tưởng tượng. Vì vậy, học sinh đặc biệt hứng thú với những bài giảng sinh động, trực quan. Tuy nhiên, trẻ ở độ tuổi này còn non nớt, đơn giản, chưa tỉnh táo và dễ tin người.
Ngoài ra, trẻ em thường nhạy cảm và dễ xúc động. Những hành vi bạo lực về tinh thần và thể chất dễ gây ám ảnh cho trẻ. Ở lứa tuổi này, suy nghĩ và nhận thức của trẻ thường thiên về cảm tính. Do đó, trẻ em thường mong đợi được thưởng bằng những món quà vật chất, chẳng hạn như món đồ chơi hoặc món đồ yêu thích. Bên cạnh đó, khen ngợi khen ngợi cũng dễ khơi dậy hứng thú và tính tích cực của trẻ.
Họ luôn có năng lượng tích cực và rất năng động, vì vậy trẻ thường chạy, nhảy và hoạt động. Tuy nhiên, một số cha mẹ chưa hiểu tâm lý trẻ, thường bắt trẻ ngồi trật tự. Tuy nhiên, điều này lại có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của trẻ. Thậm chí, la hét, cấm đoán thái quá có thể khiến trẻ nảy sinh tâm lý tiêu cực, thu mình hoặc có tâm lý sợ hãi người lớn.
Ở độ tuổi này, các bé thường rất tò mò và ham khám phá những điều mới lạ ở thế giới xung quanh nên không ngừng đặt câu hỏi. Nếu giáo viên và cha mẹ hiểu và nắm bắt được những ưu điểm này để tạo cơ sở, hướng dẫn việc học của trẻ một cách khoa học thì có thể giúp trẻ phát huy hết khả năng của mình. Ngược lại, nếu cha mẹ, thầy cô không đủ bình tĩnh và kiên nhẫn có thể dẫn đến việc trẻ sợ hãi, học tập không hiệu quả.
Việc học tập của học sinh lứa tuổi này chịu tác động của các yếu tố như áp lực học tập, phương pháp và kỹ năng sư phạm của giáo viên, môi trường sư phạm, phương pháp giáo dục và môi trường gia đình. Hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ, nhà trường và gia đình cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc học tập của trẻ.
Để làm được điều đó, giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tư vấn, hướng dẫn học sinh tiểu học. Tư vấn là đưa ra lời khuyên, gợi ý cho học sinh nhưng phải đảm bảo quyền tự quyết của học sinh
2. Nội dung hình thức tư vấn:
Với đặc điểm lứa tuổi, tư vấn cho học sinh tiểu học bao gồm các nội dung chính như phương pháp học tập, vấn đề tình bạn, kỹ năng sống.
Tư vấn cho học sinh tiểu học có thể được thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp. Để thực hiện tư vấn cho học sinh tiểu học với số lượng lớn, hình thức tư vấn tốt nhất là gián tiếp, tức là thông qua các hoạt động chung, ngoại khóa ngoài giờ lên lớp. Làm tốt công việc này, giáo viên sẽ góp phần định hướng suy nghĩ và hành động của học sinh toàn trường. Thông qua các hoạt động vui chơi, giáo viên dễ dàng nhận ra các vấn đề tâm lý của học sinh và đưa ra giải pháp phù hợp với từng em. Việc phát hiện kịp thời những vấn đề tâm lý nảy sinh ở trẻ sẽ giúp giáo viên kịp thời uốn nắn, hình thành những suy nghĩ, tâm lý tích cực.
3. Phương pháp kĩ thuật tư vấn học sinh tiểu học:
Khi tư vấn cho học sinh tiểu học, giáo viên cần sử dụng thành thạo, linh hoạt các phương pháp đàm thoại, phương pháp quan sát, phương pháp kể chuyện, đóng vai theo tình huống, phương pháp trực quan.
Để tư vấn hiệu quả, giáo viên cần tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc trách nhiệm, bảo mật, tin cậy và tự quyết. Khi khuyên bảo các em, cô giáo phải thực sự trở thành người bạn thân thiết, gần gũi. Bằng cách này, học sinh sẽ dễ dàng chia sẻ, tâm sự những khúc mắc trong lòng. Đặc biệt nhất, khi chia sẻ câu chuyện của mình, họ thường lo lắng về vấn đề bảo mật. Vì vậy, giáo viên cần giúp học sinh có sự tự tin và bảo mật thông tin tuyệt đối. Tuy nhiên, khi tư vấn giáo viên cần giúp học sinh nói ra những vấn đề tâm lý của bản thân, giáo viên có vai trò giúp học sinh hiểu vấn đề cần giải quyết. Từ đó hướng dẫn, đưa ra lời khuyên giúp các em tự tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Nhận thức rõ vai trò của mình, giáo viên cần rèn luyện đầy đủ các kỹ năng, trong đó có các kỹ năng cơ bản sau như: kỹ năng lắng nghe; kỹ năng đặt câu hỏi; kỹ năng đồng cảm; kỹ năng phản hồi; kỹ năng cung cấp thông tin; kỹ năng hòa giải im lặng; kỹ năng đối đầu, kỹ năng phát hiện sớm; kỹ năng đánh giá tâm lý học sinh; kỹ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động phòng ngừa trong trường học; kỹ năng can thiệp; kỹ năng phân bổ lực lượng giáo dục; Khả năng tạo và duy trì hồ sơ tâm lý học sinh.
Việc rèn luyện kỹ năng lắng nghe, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng đồng cảm, kỹ năng phản hồi giúp giáo viên khai thác thông tin hiệu quả nhất, từ đó nắm bắt được vấn đề cần giải quyết. Chỉ khi hiểu vấn đề cần giải quyết, giáo viên mới có thể tìm ra cách giải quyết đúng đắn.
Tuy nhiên, không phải lúc nào học sinh cũng chủ động nói ra vấn đề của mình nên giáo viên cần có kỹ năng quan sát, đánh giá tâm lý học sinh để có thể phát hiện những vấn đề tâm lý tiêu cực nảy sinh.
4. Thực trạng hoạt động tư vấn học đường:
Đẩy mạnh công tác tư vấn học đường đã trở thành xu hướng phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức.
Trong những năm qua, các cấp quản lý giáo dục đã có sự quan tâm nhất định đến công tác tư vấn học đường cho học sinh tiểu học. Tuy nhiên, nhiều giáo viên chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác này dẫn đến coi nhẹ vấn đề tư vấn cho học sinh.
Hiện nay, hầu hết học sinh tiểu học đều phải chịu rất nhiều áp lực học tập. Cha mẹ thường kỳ vọng quá nhiều vào con cái, ép con tham gia nhiều lớp bồi dưỡng văn hóa, năng khiếu. Việc học không xuất phát từ tinh thần tự nguyện, đam mê dẫn đến nhiều áp lực, áp lực trực tiếp cho học sinh. Điều này dẫn đến việc học sinh học tập không hiệu quả, không phát huy hết khả năng của mình. Trên thực tế, học sinh tiểu học có thể bị rối loạn phát triển tâm lý, rối loạn phát triển các kỹ năng cơ bản, thậm chí dẫn đến trầm cảm. Trạng thái cảm xúc tiêu cực khiến trẻ không hứng thú học tập, dẫn đến vi phạm kỷ luật, bỏ học, trốn học. Các em gặp nhiều khó khăn trong học tập, tu dưỡng đạo đức. Hơn bao giờ hết, trẻ cần sự giúp đỡ của cha mẹ và thầy cô.
Trước thực trạng đó, các nhà trường cần quan tâm đúng mức đến công tác tư vấn học đường.
5. Bài học rút ra cho bản thân:
Nhờ sự chỉ dạy tận tình của các thầy, cô giáo mà bản thân em đã lĩnh hội được nhiều kiến thức bổ ích. Tôi tin chắc rằng những kiến thức này sẽ giúp tôi gặt hái được nhiều thành công trong công tác tư vấn học đường tiểu học cũng như công tác giảng dạy của mình. Dưới đây là một số bài học tôi rút ra cho bản thân mình:
Thứ nhất: Cần tích cực hơn trong việc tìm hiểu hoàn cảnh của học sinh. Việc tìm hiểu tình hình học sinh có thể thực hiện bằng nhiều cách nhưng thuận tiện nhất là thường xuyên nói chuyện với các em trong giờ ra chơi. Điều đó sẽ giúp tôi hiểu được tâm tư, nguyện vọng, tính cách của từng học sinh. Trò chuyện thường xuyên giúp học viên thoải mái chia sẻ và trong quá trình học tập. Việc tìm hiểu thông tin về tâm lý, tình hình học tập của học sinh còn được thực hiện thông qua trao đổi với cha mẹ học sinh qua điện thoại hoặc họp phụ huynh. Thực tế cho thấy, mối quan hệ giữa nhà trường và phụ huynh không chỉ giúp phụ huynh nắm được kết quả học tập, rèn luyện của con em mình mà còn giúp giáo viên hiểu được thực trạng học tập, rèn luyện và nhân cách của học sinh. Từ đó lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp.
Thứ hai: Bản thân tôi nhận thức được tầm quan trọng của việc quan sát hoạt động học tập và vui chơi của trẻ. Quan sát để phát hiện những thay đổi về hành vi, những hiện tượng bất thường trong đời sống học đường, quan sát những biểu hiện của học sinh có nguy cơ rối nhiễu tâm lý. Đó có thể là những dấu hiệu nhỏ: đi học muộn, không đi giày, giận bạn bè, căng thẳng,… hay lớn hơn: nghỉ học không phép. Và nghiêm trọng hơn như vi phạm bài kiểm tra, vô lễ với thầy cô,… Đối với những học sinh cá biệt, nghỉ học là chuyện thường ngày nhưng với những học sinh ngoan ngoãn, chăm chỉ thì đó là biểu hiện nhỏ nhất. cũng là điều cần lưu ý. Để có sự quan sát tốt nhất, giáo viên có thể chủ động tạo cho trẻ môi trường hoạt động, vui chơi hoặc tình huống giả định để trẻ bộc lộ tâm lý, cảm xúc, tính cách. Những năm gần đây, hoạt động trải nghiệm dành cho học sinh tiểu học rất phổ biến. Các hoạt động ngoại khóa thường xuyên sẽ giúp thầy và trò trở nên gần gũi, thân thiết và đồng cảm hơn. Việc cho học sinh hoạt động ngoài giờ lên lớp không chỉ phát huy khả năng sáng tạo mà còn tạo điều kiện để các em thể hiện các kỹ năng sống cần thiết: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng hợp tác, kỹ năng diễn đạt tự tin, kỹ năng giao tiếp, v.v.
Thứ ba: Về thái độ đối với học sinh, tôi cần nhẹ nhàng, kiên nhẫn lắng nghe học sinh trình bày câu chuyện của mình. Nhờ thái độ đó mà tôi có được sự tự tin để làm cho học sinh thoải mái, dễ bộc lộ cảm xúc.
Thứ tư: Nhờ những kiến thức mà khóa học cung cấp, tôi đã tìm ra những giải pháp tốt nhất cho công tác tư vấn học đường của mình với tư cách là một giáo viên chủ nhiệm:
– Tổ chức hoạt động tư vấn tâm lý giúp học sinh tiểu học phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, kịp thời uốn nắn, tránh những biểu hiện tâm lý tiêu cực.
– Đẩy mạnh việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh tiểu học thông qua các môn học như Tiếng Việt, khoa học tự nhiên và xã hội, đạo đức,… Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học nhằm phát triển các giác quan thẩm mỹ, nâng cao nhận thức xã hội, ý thức công dân, tình yêu quê hương đất nước và đất nước. Không chỉ nhặt rác, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học còn góp phần xây dựng thái độ sống tích cực, tinh thần đoàn kết, chủ động, dũng cảm trong các hoạt động tập thể. Ngoài ra, việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh tiểu học thông qua một số môn học còn góp phần củng cố ý thức tự quản của học sinh trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
– Rèn luyện cho học sinh kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng trình bày, khả năng thích ứng với học tập và kỹ năng nghiên cứu.
THAM KHẢO THÊM: