Ai là thiên tài kiệt xuất trong lịch sử vang danh truyền kỳ năm châu? Họ đã ghi dấu vào trang sử vẻ vang của dân tộc như thế nào? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé!
Mục lục bài viết
- 1 1. Bậc kì tài kiệt xuất trong lịch sử làm rạng danh truyền thống năm châu là ai?
- 2 2. Tiểu sử về cuộc đời của Nguyễn Quán Quang:
- 3 3. Tiểu sử và cuộc đời của Nguyễn Hiền:
- 4 4. Tiểu sử và cuộc đời của Mạc Đĩnh Chi:
- 5 5. Tiểu sử và cuộc đời của Lương Thế Vinh:
- 6 6. Tiểu sử và cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
1. Bậc kì tài kiệt xuất trong lịch sử làm rạng danh truyền thống năm châu là ai?
Bậc kì tài kiệt xuất trong lịch sử làm rạng danh truyền thống năm châu gồm:
– Nguyễn Quán Quang
– Nguyễn Hiền
– Mạc Đĩnh Chi
– Lương Thế Vinh
– Nguyễn Bỉnh Khiêm
Bậc kỳ tài kiệt xuất trong lịch sử
Làm xứng danh truyền thống khắp năm châu
Thiên hạ khắp nơi tranh hùng
Dùng bao mưu kế giải bài cân voi
– Đáp án LUONGTHEVINH
Bậc kỳ tài kiệt xuất trong lịch sử
Làm xứng danh truyền thống khắp năm châu
Trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa bang Việt Nam
Từ bé nổi tiếng là thần đồng
– Đáp án NGUYENHIEN
Bậc kỳ tài kiệt xuất trong lịch sử Đi sứ – chức lớn được thăng
Trạng nguyên lưỡng quốc, đời hằng ngợi ca
– Đáp án MACDINHCHI
2. Tiểu sử về cuộc đời của Nguyễn Quán Quang:
Có nhiều ghi chép khác nhau về vị trạng nguyên đầu tiên của Việt Nam. Chẳng hạn, thời Lý, Lê Văn Hiếu làm Khai Cố Đại Bát – năm Ất Mão – 1075, đời thứ 4 của vua Ti Ninh Lý Năng Tung – kỳ thi Nho đầu tiên được tổ chức ở Tam Trường. Tuy nhiên, kỳ thi này không lấy đỗ Trạng nguyên mà gọi là Nhất giáp. Như vậy, danh sách 47 vị Trạng nguyên treo tại Văn Miếu Hà Nội ghi rằng Nguyễn Quán Quang là Trạng nguyên đầu tiên đỗ tiến sĩ năm 1246. Nguyễn Quán Quang quê ở huyện Tam Sơn, huyện Đông Ngàn quê hương Kinh Bắc, nay là huyện Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo và không có tiền để đi học. Thuở nhỏ, Ngài thường ra khỏi lớp để nghe thầy dạy học trò trong làng, giải thích Tam tạng kinh điển cho học trò trong làng, rồi viết lên những viên đá trên nền đá. Chính vì thế có người gọi anh là “thần đồng” học hành cẩu thả. Trong vườn ông có rồng phượng múa, ông có hiếu nên nhận ông vào học. Quan Quang là người thông minh, học giỏi, nổi tiếng về mọi mặt, từ sự tinh thông kinh sử, tài ứng khẩu thơ phú và tài luận sự đời uyên bác. Ông đi thi Phong (đỗ Trạng nguyên), thi Huế (đỗ Huệ Nguyên) cũng đỗ Trạng nguyên. Chính vì vậy người ta gọi ông là Tam Nguyên. Nói đến trạng nguyên ngày nay, chúng ta thường nhắc đến Nguyễn Hiền, trạng nguyên nhỏ tuổi nhất, nhưng ít người biết đến Quan Quán và câu chuyện của ông.
3. Tiểu sử và cuộc đời của Nguyễn Hiền:
Năm Đinh Mùi (1247), sách Đại Việt Sử Ký Toàn Chính Sử ghi lại như sau: Ban đỗ Bảng Nhãn, Đặng Ma La (14 tuổi) đỗ Thám Hoa, Trạng Nguyên, Tam Khôi. Tôi tên là Nguyễn Hiền. Tuy nhiên, Nguyễn Quang Quân đã đỗ tiến sĩ trước đó một năm và được coi là trạng nguyên đầu tiên trong lịch sử. Điều này khiến Nguyễn Hiền trở thành Trạng nguyên trẻ tuổi nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam. Anh năm nay vừa tròn 12 tuổi. Nguyễn Hiền sinh ra ở một vùng quê nghèo thuộc huyện Thung Hiền (nay là xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Mồ côi từ nhỏ, ông sớm được tiếp xúc với sách vở, được coi là thần đồng với trí nhớ tốt, thông minh, dẻo dai, uyên bác và có những khả năng kỳ lạ. Riêng Nguyễn Hiền, ở Việt Nam không ai không biết ông có tài ứng biến trong mọi hoàn cảnh. Tương truyền, Nguyễn Hiền từ nhỏ đã rất nghịch ngợm, mới 7 tuổi đã thường dạy lũ trẻ trong làng chơi nặn đất sét. Khi làm con voi, mình dùng 4 con cua để làm chân voi, 1 con đỉa làm mũi và 2 cái tai bướm để voi cũng cử động được, các bé rất thích và vỗ cánh reo hò ầm ĩ. Ruộng lúa. Nhờ trí tuệ và sự uyên bác của mình, Nguyễn Hiền đã khiến bao người ngưỡng mộ và ca ngợi ông là “thần đồng xuất chúng” với hai câu đối ca ngợi tài năng của ông: “Hai mươi tuổi dựng hai nước/ Một đời vạn năm dựng ba nước”. nhân tài”.” (Mười hai tuổi khai hai nước/ Nghìn năm ghi ba nhân tài).
4. Tiểu sử và cuộc đời của Mạc Đĩnh Chi:
Ông quê ở làng Lũng Động, huyện Chi Lâm, tỉnh Hải Dương ngày nay. Nhà nghèo, cha mất sớm, anh sống bằng nghề nhặt củi. Anh sống trong một trại trẻ mồ côi nghèo khó, và vì vẻ ngoài xấu xí nên mọi người thường coi thường anh. Là một người thông minh và linh hoạt, anh sớm nhận ra rằng cách duy nhất để thoát khỏi cảnh nghèo khó này là thành công trong học tập. Đó là lý do tại sao anh ấy học tập chăm chỉ. Năm 1304 đỗ Trạng Nguyên. Nhưng chỉ vì vẻ ngoài xấu xí của anh ta, nhà vua không muốn anh ta trở thành số một. Nhà vua mến mộ những người tài và cho họ vào tổ kiến để giúp nhà vua làm rạng rỡ bờ cõi đất nước. Ông đã giữ các vị trí từ viện sĩ đến bộ trưởng đến thủ tướng. Mạc Đĩnh Chi luôn dùng tài năng và phẩm chất cao quý của mình để trị quốc, được người nước ngoài ngưỡng mộ. Nói về Mạc Đĩnh Chi, sử sách đã ghi lại rất chi tiết những giai thoại của ông trong những lần ông đi yết kiến vua Nguyên như “Ở cửa ải”, “Tiên kiến”, “Tranh chim sẻ ở phủ Tể tướng”. Nhưng giai thoại nổi tiếng nhất là chính nhờ những “thẻ bài” mà Mạc Đĩnh Chi được vua Nguyên phong là “Lưỡng quốc công thần”. Tương truyền khi vua Nguyên mời sứ giả Mạc Đĩnh Chi làm thơ trên chiếc quạt. Đang bỡ ngỡ, anh cũng “bí”. Tình cờ nhìn thấy chữ viết của đại thần Goryeo, ông cũng đoán được ý nghĩa và viết ra một bài thánh ca có nội dung tương tự nhưng ý nghĩa hay và sâu sắc hơn nhiều.
5. Tiểu sử và cuộc đời của Lương Thế Vinh:
Lương Thế Vinh tên đầy đủ là Cảnh Nghị, hiệu là Thụy Hiền, sinh ra trong một gia đình nông dân trí thức ở làng Cao Hương, nay là huyện Thiên Bản, tỉnh Nam Định. Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng là một đứa trẻ thần đồng, thông minh và tài giỏi. Lớn lên, anh học thả diều, đá bóng, câu cá và bắt chim. Các anh làm nên lịch sử, các anh quên ăn quên ngủ, ngày đêm. Bởi vì anh ấy có một cách học và anh ấy nhớ bất cứ nơi nào anh ấy đi. Học vấn của ông chưa đầy hai mươi nhưng đã nổi tiếng khắp vùng. Năm 23 tuổi đỗ Hội nguyên Quý Mùi đời vua Lê Thánh Tông (1463). Có nhiều giai thoại về Lương Thế Vinh. Ông là một người đa tài, xuất sắc không chỉ về toán học mà còn về Phật giáo, âm nhạc và thơ ca. Nổi tiếng về tài toán học, ông đã nhìn sứ thần nhà Minh và than thở: “Nước Nam nhiều người tài”. Nhờ có tài ngoại giao, ông được vua tin cậy, trọng dụng, giao soạn thảo văn kiện ngoại giao, tiếp sứ thần nước ngoài. Sứ giả biết trạng nguyên, nhưng thử cân nặng của voi và độ dày của giấy. Ông điềm nhiên nhận lời, đặt voi lên thuyền, đánh dấu độ sâu nước của thuyền và đặt những tảng đá lên thuyền cho bằng phẳng. Sau đó, ông chia những viên đá thành những mảnh nhỏ hơn, cân chúng và cộng chúng lại với nhau để có được trọng lượng của con voi. Ngoài toán học, Lương Thế Vinh còn am hiểu sâu sắc về âm nhạc và hát chèo. Vì vậy, sau khi ông mất, bạn ông là Tiến sĩ Quách Hữu Nghiêm (quê Thái Bình) đã đặt tên tác phẩm là “Cường Hy phường phả lục” và in thành sách – đây được coi là tác phẩm lý luận đầu tiên về nghệ thuật sân khấu truyền thống.
6. Tiểu sử và cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), tức Nguyễn Văn Đạt, tự là Hạnh Phủ, bí danh Bạch Vân Lai, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử và văn hóa Việt Nam thế kỷ 16, thường được nhắc đến với tên ông là một sinh viên. Được tôn là Giang phu nhân. Việt Nam của thế kỷ Ông được biết đến với tư cách đạo đức, tài thơ, một nhà giáo nổi tiếng trong thời Nam Bắc Triều (Chiến tranh Lê Mạc) và khả năng dự đoán tiến trình của lịch sử Việt Nam. Sau khi thi đỗ Trạng nguyên khoa Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, ông được truy tặng tước Trịnh Tuyên Hầu, thăng Trình Quốc Công, sau gọi là Trình Cao Tổ phong thần và tôn ông là Thánh Song. Ông được coi là một trong những nhà tiên tri nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam, và nhiều lời tiên tri được cho là bắt nguồn từ ông và Chân Trinh. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng được cho là người đầu tiên có ý thức đề cập đến tiếng Việt này trong các tác phẩm của mình còn tồn tại đến ngày nay. Theo nhiều học giả, Nguyễn Bỉnh Kiểm là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ 16 có tầm nhìn chiến lược rõ ràng về chủ quyền quốc gia trên biển Đông và có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. – Đầu tiên phải kể đến hai từ. Quốc hiệu của đất nước – được thể hiện một cách có ý thức nhất qua di sản thơ ca còn lưu truyền đến ngày nay.