Áp dụng pháp luật dân sự là một loại áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Vậy áp dụng pháp luật dân sự là gì? Có cần tuân theo nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự nào không?
Mục lục bài viết
1. Áp dụng pháp luật dân sự là gì?
Khái niệm áp dụng pháp luật đã được sử dụng trong nhiều công trình nghiên cứu. Tuy các công trình đó định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng tựu trung lại, áp dụng pháp luật được hiểu là một hoạt động có tính tổ chức, quyền lực nhà nước, do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể. Trong các hình thức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật được xem là hình thức cơ bản, chủ yếu và quan trọng nhất. Phần lớn các quy định của pháp luật chỉ có thể được thực hiện trong thực tế thông qua hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền.
Áp dụng pháp luật được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực pháp luật. Trong lĩnh vực pháp luật dân sự, nhờ có áp dụng pháp luật mà các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự được xác định một cách rõ ràng.
Theo nguyên lý chung, áp dụng pháp luật dân sự là hoạt động của những cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật dân sự vào những trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể hoặc nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên hoặc của người thứ ba có liên quan khi giải quyết các tranh chấp dân sự.
Như vậy, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền, các quy phạm pháp luật dân sự mới điều chỉnh các quan hệ xã hội, thực hiện sự tác động lên hành vi của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự và thông qua đó, tác động lên các quan hệ xã hội. Áp dụng pháp luật dân sự là một giai đoạn quan trọng trong quá trình biến các quy phạm pháp luật dân sự thành thực tế.
Áp dụng pháp luật dân sự trong tiếng Anh được hiểu là Apply civil law.
Cách hiểu về định nghĩa của áp dụng pháp luật dân sự trong tiếng Anh như sau:
2. Nguyên tắc áp dụng pháp luật:
*) Nguyên tắc “ưu tiên áp dụng luật được ban hành sau” là nguyên tắc cơ bản trong áp dụng pháp luật ở các nước theo truyền thống pháp điển hóa (Dân luật), có nguồn gốc từ Luật La Mã. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự (BLDS) của Nhật Bản quy định, nguyên tắc ưu tiên áp dụng quy phạm có thời điểm ban hành sau (khi cùng một quan hệ được điều chỉnh bởi hai quy phạm pháp luật có nội dung khác nhau ở trong hai văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý ngang nhau, thì ưu tiên áp dụng quy phạm của văn bản được ban hành sau) là một trong ba nguyên tắc cơ bản để xác định vị trí của các quy phạm pháp luật dân sự trong hệ thống pháp luật (bên cạnh nguyên tắc tôn trọng tầm hiệu lực pháp lý của văn bản và nguyên tắc ưu tiên áp dụng quy phạm của pháp luật chuyên ngành).
Nguyên tắc này cũng được quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của nước ta.
*) Nguyên tắc “ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung” cũng là một nguyên tắc có nguồn gốc từ Luật La Mã (lex specialis derogat legi generali). Nguyên tắc này được quy định trong hệ thống pháp luật ở nhiều nước, đặc biệt trong pháp luật dân sự và luật điều ước quốc tế, cụ thể:
– Nhật Bản: nguyên tắc ưu tiên áp dụng quy định của luật chuyên ngành: khi một quan hệ pháp luật được điều chỉnh bởi cả quy định của đạo luật chung và đạo luật chuyên ngành thì ưu tiên áp dụng quy định của luật chuyên ngành. Pháp luật Nhật Bản coi đối tượng điều chỉnh của các đạo luật là tiêu chí để phân định một luật là luật chuyên ngành hay là luật chung. BLDS được coi là luật chung, các quy định của pháp luật dân sự được coi là các quy định của luật chung, còn các quy định điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý (các quan hệ của luật tư) trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội có tính đặc thù như thương mại, bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng, dịch vụ… được coi là các quy định của luật chuyên ngành. Về kỹ thuật lập pháp, luật được coi là luật chuyên ngành phải bao hàm điều khoản quy định, luật này sẽ được ưu tiên áp dụng trước luật chung.
– Hàn Quốc: Theo quy định của Luật Thương mại Hàn Quốc, chỉ áp dụng trật tự ưu tiên đối với các vấn đề liên quan đến thương mại. Trường hợp không thuộc quy định của Luật này thì sẽ ưu tiên tập quán pháp thương mại, sau đó là quy định của BLDS hoặc các luật khác.
– Đức: Tương tự như các quốc gia khác, trong một số lĩnh vực như hợp đồng, BLDS Đức quy định những vấn chung (mang tính phổ quát), còn những vấn đề riêng đặc thù của chuyên ngành do pháp luật chuyên ngành quy định cụ thể. Vì vậy, khi có sự không thống nhất giữa các quy định về cùng vấn đề trong BLDS và trong luật chuyên ngành thì quy định của luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng.
– BLDS Trung Quốc, Liên bang Nga, Vương quốc Campuchia… và nhiều nước khác đều quy định tương tự về nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước quy định của BLDS.
3. Các dạng áp dụng pháp luật dân sự:
*) Áp dụng Bộ luật Dân sự
Với tính chất là một đạo luật quan trọng, BLDS năm 2015 đã xác định một cách nhất quán tư tưởng chỉ đạo của các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 3 và khẳng định: “Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự”. Với nguyên tắc này, BLDS sẽ điều chỉnh toàn bộ các quan hệ tài sản giữa các chủ thể trong xã hội mang tính chất hàng hóa – tiền tệ và các quan hệ nhân thân phi vật chất, trong đó các chủ thể tham gia bình đẳng về mặt pháp lý, tự chịu trách nhiệm về tài sản. Hay nói cách khác, BLDS sẽ điều chỉnh tất cả những vấn đề thuộc “pháp luật dân sự”, tức là những ứng xử, quan hệ được điều chỉnh bởi luật khác nhưng thuộc trong lĩnh vực “pháp luật dân sự”.
Đối với các quan hệ có cùng bản chất pháp lý, luật chuyên ngành có thể khác với BLDS do đặc thù của quan hệ chuyên ngành nhưng không được trái với các nguyên tắc chung của luật dân sự. Một số quy định của BLDS như quy định về tư cách pháp nhân, về sở hữu chung hợp nhất, sở hữu chung theo phần, những quy định mang tính xác định một khái niệm pháp lý… có ý nghĩa, giá trị pháp lý chung cho toàn bộ hệ thống pháp luật. Không thể có pháp nhân riêng cho luật dân sự, riêng cho luật thương mại, luật hợp tác xã, mặc dù các loại hình công ty và hợp tác xã có quy chế riêng về việc thành lập, hoạt động, giải thể. Đối với một tài sản nào đó, nếu chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu, sử dụng thì sẽ phải tuân theo quy định của chế định tài sản vật quyền.
Tuy nhiên, nếu tài sản đó đưa vào quá trình giao lưu dân sự, kinh tế thông qua hợp đồng vay, cho thuê, đầu tư kinh doanh như lập công ty… thì phải áp dụng theo các quy định của các loại hợp đồng, giao dịch tương ứng, theo quy chế trái quyền. Việc điều chỉnh các quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể phải tuân thủ nguyên tắc không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 3 của BLDS.
*) Áp dụng tập quán
Trong những quan hệ xã hội nhất định, tập quán được biểu hiện và định hình một cách tự phát hoặc được hình thành và tồn tại ổn định thông qua nhận thức của chủ thể trong một quan hệ nhất định và tập quán được bảo tồn thông qua ý thức của quá trình giáo dục có định hướng rõ nét. Như vậy, tập quán được hiểu như những chuẩn mực xử sự của các chủ thể trong một cộng đồng nhất định và còn là tiêu chí để đánh giá tính cách của một cá nhân tuân theo hay không tuân theo những chuẩn mực xử sự mà cộng đồng đã thừa nhận và áp dụng trong suốt quá trình sống, lao động, sinh hoạt tạo ra vật chất và những quan hệ liên quan đến tài sản, đến tình cảm của con người trong cộng đồng.
Trên thế giới, tập quán vẫn được xem là một nguồn của pháp luật, tuy ở mức độ khác nhau ở các hệ thống pháp luật và ở các nước khác nhau. Tập quán còn được biết đến với vai trò nền tảng của luật thương mại và là một nguồn quan trọng của công pháp quốc tế hiện đại.
Dù ngày nay, pháp luật thành văn được chú trọng nhưng tập quán vẫn là một nguồn luật bổ sung quan trọng ở hầu hết các nước và góp phần to lớn vào việc xây dựng và ADPL. Ở một đất nước có nhiều dân tộc cùng chung sống trong đa dạng văn hoá, tập quán hay luật tục như ở Việt Nam thì áp dụng tập quán càng trở nên có ý nghĩa. Đây chính là nguồn luật quan trọng góp phần mang lại hiệu quả trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung cũng như bảo vệ quyền của chủ thể nói riêng.
*) Áp dụng tương tự pháp luật, án lệ và lẽ công bằng
Trong quá trình làm luật, các nhà làm luật đều cố gắng dự kiến đến mức tối đa các trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống để điều chỉnh kịp thời, nhằm tạo ra đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc ADPL để giải quyết các vụ việc xảy ra trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, các tranh chấp diễn ra trong thực tế không phải lúc nào cũng có các quy phạm trực tiếp điều chỉnh vụ việc đó. Đây chính là tình trạng thiếu pháp luật, tình trạng pháp luật có những lỗ hổng, những khoảng trống.
Khi gặp trường hợp nêu trên, để bảo đảm công lý, bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể trong quan hệ dân sự, chủ thể có thẩm quyền không thể chờ đến khi ban hành được quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh vụ việc mới giải quyết mà phải giải quyết ngay bằng cách thừa nhận việc áp dụng tương tự pháp luật.
Khoản 1 Điều 6 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự”.
Khi áp dụng tương tự pháp luật,
Về nguyên tắc, khi xét xử, thẩm phán, hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ để giải quyết các vụ việc tương tự, bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý giống nhau phải được giải quyết như nhau. Trường hợp áp dụng án lệ thì số bản án, quyết định của Toà án có chứa đựng án lệ, tính chất, tình tiết vụ việc tương tự được nêu trong án lệ và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý trong án lệ phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của Toà án.
BLDS và Bộ luật TTDS quy định tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Trước hết là áp dụng tập quán, nếu không có tập quán, sẽ áp dụng “tương tự pháp luật”. Nếu không thể áp dụng tập quán và tương tự pháp luật, thẩm phán sẽ áp dụng “nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng”. Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.