Vấn đề về quyền công dân luôn là khía cạnh không thể thiếu của bất kỳ chế độ và Nhà nước nào. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến nền chính trị của quốc gia đó mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Vậy quyền chính trị là gì? Các quyền chính trị của công dân theo Hiến pháp như thế nào?
Mục lục bài viết
- 1 1. Quyền chính trị là gì?
- 2 2. Các quyền chính trị của công dân theo Hiến pháp:
- 2.1 2.1. Về quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia công việc quản lý nhà nước và xã hội:
- 2.2 2.2. Về quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền tiếp cận thông tin:
- 2.3 2.3. Về quyền tự do hội họp, lập hội,biểu tình:
- 2.4 2.4. Về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo:
- 2.5 2.5. Về quyền bình đẳng của các dân tộc:
- 3 3. Thể chế Hiến pháp nhằm bảo đảm thực hiện các quyền chính trị của công dân:
1. Quyền chính trị là gì?
Cho đến nay có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về quyền chính trị. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) không đưa ra khái niệm, mà chỉ liệt kê một loạt các quyền và tự do cơ bản của con người trên cả hai lĩnh vực dân sự và chính trị.
Từ đó, có thể hiểu một cách đơn giản, các ” quyền chính trị là các quyền của cá nhân được tham gia một cách trực tiếp và gián tiếp vào công việc của Nhà nước và xã hội, bao gồm cả việc thành lập và quản lý nhà nước”. Để thực hiện các quyền chính trị, cá nhân phải tham gia cùng với những người khác, như quyền hội họp hòa bình, quyền bầu cử,…
So với việc thực hiện các quyền dân sự, thì mức độ thực hiện các quyền chính trị bao giờ cũng kèm theo những giới hạn nhất định, như: vì lý do an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức chung, quyền và tự do của người khác,…Với cách hiểu này, nội hàm khái niệm quyền chính trị của công dân chỉ chủ yếu đề cập tới quyền về bầu cử để lựa chọn ra người thay mặt mình nắm giữ và thực thi quyền lực nhà nước và quyền ứng cử, tham gia vào cuộc đua để được cử tri/người dân lựa chọn vào bộ máy thực thi quyền lực nhà nước.
Hiện nay, do sự phát triển của dân chủ, nội hàm khái niệm quyền chính trị ngày càng được mở rộng, bao gồm cả việc tham gia với Nhà nước quyết định các vấn đề chính trị, trọng đại của đất nước, như ban hành các chính sách có liên quan tới quyền của người dân; quyết định về thể chế chính trị, hình thức Chính phủ, sửa đổi Hiến pháp,…
Ngoài ra, quyền chính trị còn có thể được mở rộng và có liên quan tới một loạt các quyền về tự do dân chủ của cá nhân, công dân; vì các quyền này, liên quan tới bản chất, chính sách và mức độ dân chủ của nhà nước. Đó là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, hội họp, tự do biểu tình, tự do tín ngưỡng và tôn giáo,…
Các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được hiểu là các quyền cá nhân và cả quyền cộng đồng. Nếu các quyền dân sự, chính trị được hiện thực hóa – có thể tức thời nhờ quyết tâm và quyết sách chính trị của lãnh đạo nhà nước, thì các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa chỉ được hiện thực hóa dần dần, từng bước, tương ứng với nguồn lực sẵn có của quốc gia.
Quyền chính trị trong tiếng Anh là: Political Rights
2. Các quyền chính trị của công dân theo Hiến pháp:
Hiện nay
2.1. Về quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia công việc quản lý nhà nước và xã hội:
Các quyền này được quy định tại Điều 27, 28, 29 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội.Công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.Theo Điều 6, Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện.
2.2. Về quyền tự do ngôn luận, báo chí; quyền tiếp cận thông tin:
Theo Điều 25 Hiến pháp năm 2013, công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin. Nếu như Hiến pháp 1992 chỉ quy định “Công dân có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013 tại Điều 25 đã thay chữ “được thông tin” bằng cụm từ “tiếp cận thông tin”. Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp, để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.
2.3. Về quyền tự do hội họp, lập hội,biểu tình:
Quyền này được quy định tại Điều 25, Hiến pháp năm 2013:” Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
2.4. Về quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo:
Điều 24, Hiến pháp năm 2013 quy định: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
2.5. Về quyền bình đẳng của các dân tộc:
Theo Điều 5, Hiến pháp năm 2013, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. Điều 42 Hiến pháp năm 2013 đã quy định một quyền mới là: Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.
3. Thể chế Hiến pháp nhằm bảo đảm thực hiện các quyền chính trị của công dân:
Một là, công dân và mọi người được hưởng các quyền con người một cách mặc nhiên và Nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong Hiến pháp năm 1992, chẳng hạn, Điều 51 quy định: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định“. Đúng là để được bảo vệ và thúc đẩy, các quyền con người cần phải được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật; nhưng quy định kể trên đã gây hiểu nhầm là: Hiến pháp và pháp luật(hay nhà nước)là những chủ thể sản sinh ra các quyền con người. Quyền con người phải do và chỉ có thể do Hiến pháp và pháp luật(hay nhà nước) xác định thì mới có ý nghĩa thực chất, nếu không sẽ không được thừa nhận và áp dụng.
Cách hiểu như thế không phù hợp với nhận thức chung về quyền con người trên thế giới. Theo quan điểm của cộng đồng quốc tế, mọi thành viên của nhân loại khi sinh ra đã mặc nhiên có tư cách chủ thể của các quyền con người. Các nhà nước chỉ có thể công nhận (bằng Hiến pháp và pháp luật) các quyền đó là những giá trị vốn có của mọi cá nhân mà Nhà nước có nghĩa vụ công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy.
Kế thừa Hiến pháp năm 1946 và tinh hoa tư tưởng nhân loại, trong Hiến pháp năm 2013, Khoản 1 Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân … được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Quy định này đánh dấu bước phát triển mới về địa vị pháp lý của con người, của công dân trong tiến trình lập hiến ở Việt Nam.
Hai là, bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với bảo đảm chế độ chính trị
Trong Hiến pháp năm 2013, chương chế định về quyền con người, quyền công dânđược đưa lên Chương 2, ngay sau chương chế định về chế độ chính trị (so với vị trí thứ 5 trong Hiến pháp năm 1992). Đây không chỉ đơn thuần là kỹ thuật lập hiến, mà phản ánh sự thay đổi trong nhận thức lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với 5 đặc điểm cơ bản:
1/ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
2/ Tôn trọng Hiến pháp và pháp luật;
3/ Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân;
4/ Bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước (và xã hội);
5/ Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Bằng cách đó đã khẳng định: Nhà nước (hay chế độ chính trị – xã hội) được lập ra để bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, trong đó có các quyền dân sự, chính trị.
Ba là, thể chế tư pháp để bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Hiến pháp năm 1992, Điều 71 chỉ quy định về cấm truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.Đến Hiến pháp năm 2013, ở Điều 20, lần đầu tiên trong lịch sử, Hiến pháp đã quy định việc cấm tra tấn nói riêng và cấm bất kỳ hình thức bạo lực, đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tất cả mọi người. Quy định này cụ thể, rõ ràng và rộng hơn so với quy định cũ, cả về hành vi bị cấm, cả về chủ thể được bảo vệ.
Hiến pháp năm 1992, Điều 72 quy định quyền tố tụng công dân chỉ gồm: suy đoán vô tội, bồi thường thiệt hại vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan sai trong tố tụng, xử lý nghiêm minh người thi hành tố tụng gây oan sai. Đến Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung: Xét xử kịp thời, công bằng, công khai; không bị kết án hai lần vì một tội phạm; quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (Điều 31). Quy định mới này đã mở rộng chủ thể và phạm vi quyền đòi bồi thường thiệt hại; buộc các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải công bằng và khách quan trong việc tìm chứng cứ, và coi trọng cả chứng cử buộc tội, lẫn chứng cứ gỡ tội.
Bốn là, chế định đầy đủ nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân
Trong khi Điều 50 Hiến pháp năm 1992 mới chỉ ghi nhận nghĩa vụ tôn trọng thì Hiến pháp năm 2013 ghi nhận cả bốn nghĩa vụ của Nhà nước về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người (Điều 3 và Điều 14) tương tự như quy định tại Lời mở đầu của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1948).
Điều 28 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định quyền tham gia quản lý nhà nước được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và bổ sung nội dung Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. Việc bổ sung này đã ràng buộc nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân. Qua đó, bảo đảm quyền này của người dân được bảo đảm thực hiện trong thực tế.
Năm là, chế định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, mỗi công dân
So với các bản Hiến pháp trước đây, trong Hiến pháp năm 2013, việc quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, mỗi công dân có nội dung đầy đủ, rõ ràng hơn. Điều 15 của Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “ Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác”; “Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Sáu là, chế định về hạn chế quyền
Khoản 2, Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Việc quy định về hạn chế quyền là cần thiết để bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện một cách minh bạch theo luật định và phòng ngừa sự cắt xén hay hạn chế các quyền này một cách tùy tiện từ phía các cơ quan nhà nước.
Bảy là, quy định những công cụ hữu hiệu và quy định việc thiết lập cơ chế bảo vệ Hiến pháp, trong đó có các quyền con người đã được hiến định
Hiến pháp năm 2013 đã quy định những công cụ hữu hiệu cho việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân,đó là quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, và sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp. Khoản 2 Điều 119khẳng định: “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”. Đây là quy định có tính nguyên tắc nhằm từng bước thể chế hóa cơ chế bảo vệ Hiến pháp; trong đó có các quyền dân sự và chính trị đã được hiến định, một cách hiệu quả và ở mức cao nhất.