Khoản 1 điều 80 của LDN cho rằng cổ đông phổ thông phải thanh tóan đủ số cổ phần đã cam kết mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
1. Khoản 1 điều 80 của LDN cho rằng cổ đông phổ thông phải thanh tóan đủ số cổ phần đã cam kết mua trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Điều này gây hạn chế các quyền lợi của cổ đông phổ thông trong khi thậm chí cổ phần được hình thành trong tương lai cũng có thể được chuyển giao.
2. Khoản 4 điều 86 LDN quy định cổ đông sở hữu từ 5% tổng số cổ phần trở lên phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền trong thời hạn 7 ngày. Thủ tục này vừa rườm rà lại không mang lại ý nghĩa. Ngoài ra điều 89 còn quy định cổ phần và trái phiếu của công ty cổ phần phải thanh tóan đủ trong 1 lần, điều này gây hạn chế cho các cổ đông cũng như những người tham gia thị trường chứng khoán mà mang nặng tính thủ tục.
3. Các vấn đề về chứng khoán của công ty cổ phần vẫn chưa được qui định rõ như các loại chứng khoán công ty cổ phần được phép phát hành. Như cổ phiếu qũy hay phát hành cổ phiếu vẫn chưa được qui định trong luật chứng khoán nên cân phải làm rõ những vấn đề này. Ngòai ra còn cần làm rõ mối quan hệ giũa chứng chỉ quỹ và quỹ đầu tư và quỹ đại chúng.
4. Luật chứng khoán chưa quy định rõ, chưa phân biệt rõ giữa chứng khoán niêm yết và chứng khoán chưa niếm yết dẫn đến việc không khái quát được, chưa nhận định được bản chất của hai loại chứng khoán này. Trên thực tế, chứng khoán niêm yết có lợi hơn trên SGDCK.
6. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, tư cách cổ đông của công ty cổ phần được xác định dựa trên căn cứ quyền sở hữu cổ phần. Công ty cổ phần lập và lưu giữ sổ đăng ký cổ đông như một văn bản chứng minh về quyền sở hữu cổ phần của mỗi cổ đông. Công ty phát hành cổ phiếu để xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty. Vậy bằng chứng để xác nhận một người đang có quyền sở hữu đối với cổ phiếu (khi chưa niêm yết) là người đó phải được ghi tên vào sổ đăng ký cổ đông của công ty cổ phần và có Sổ chứng nhận sở hữu cổ phần hoặc Sổ cổ đông, trong đó khẳng định số lượng cổ phần và loại cổ phần nhất định sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, có nhiều công ty chỉ cấp cho cổ đông góp vốn một loại chứng từ kế toán gọi là “
7. Người sở hữu chứng khoán khi bán chứng khoán chỉ có thể nhận được tiền hoặc khi mua chứng khoán chỉ nhận được chứng khoán trên tài khoản của mình tại công ty chứng khoán nơi mở tài khoản giao dịch sau 3 ngày kể từ thời điểm được khớp lệnh. Điều này cho thấy quyền định đoạt chứng khoán bị hạn chế. Sau 3 ngày trên nhà đầu tư chứng khoán mới có thể thực hiện được quyền năng tiếp theo của chủ sở hữu như bán, chuyển nhượng chứng khoán mua được hoặc có quyền định đoạt số tiền trên tài khoản của mình. Nên chăng, luật pháp cần sửa đổi để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, người sở hữu chứng khoán.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
8. Ngoài ra, trong trường hợp bán khống chứng khoán (bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán) hoặc khi nhà đầu tư thực hiện các giao dịch ký quỹ chứng khoán cũng chưa có quy định cụ thể của pháp luật về vấn đề này, vì vậy quyền lợi của người sở hữu chứng khoán ở đây cũng không rõ.
9. Điều kiện tham gia thị truờng chứng khoán của các công ty cổ phần là tổ chức tín dụng vẫn chưa được qui định trong luật các tổ chức tín dụng một cách rõ ràng mà chỉ qui định rất mông lung xoay quanh câu chuyện về cổ phần và cổ đông chứ không khái quát rõ về vấn đề cổ phiếu và trái phiếu.
10. Giữa pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về chứng khoán còn có sự chưa thống nhất, đồng bộ trong việc qui định về trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ giữa công ty cổ phần và cổ đông hiện hữu trong việc chuyển nhượng cổ phần. Mặt khác, cổ phiếu được quy định trong các văn bản này có nội dung cũng không giống nhau. Do đó gây khó khăn cho doanh nghiệp và người đầu tư trong việc thực hiện các giao dịch về chứng khoán, đặc biệt là trên thị trường thứ cấp
11. Điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ cũng chưa được hợp lý: nên chia thành 2 loại: đối với công ty cổ phần không phải là công ty đại chúng và công ty đại chúng. Không dùng thuật ngữ “công ty chưa đại chúng”, bởi lẽ “chưa” có nghĩa là trong tương lai là “sẽ”, nhưng trong thực tế có công ty cổ phần không thể trở thành công ty đại chúng vì những hạn chế nhất định.
Ngoài ra còn nhiều bất cập khác của luật chứng khoán ảnh hưởng đến họat động chứng khoán của doanh nghiệp như xử lý hình sự, hành chính trong lĩnh vực chứng khoán, đối tuợng điều chỉnh của luật chứng khoán không rõ ràng, các nguyên tắc họat động của công ty chứng khoán…
Mọi thắc mắc pháp lý cần tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ, quý khách hàng vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6568 hoặc gửi thư về địa chỉ email: [email protected].
——————————————————–
THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA LUẬT DƯƠNG GIA:
– Thời hạn làm báo cáo tài chính cho công ty mới cổ phần hóa
– Báo cáo tài chính của công ty mẹ, công ty con
– Thay đổi trụ sở chính của công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh