Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy được quy định tại Điều 409 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là hành vi của người có trách nhiệm trong quân đội không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực ban, trực chiến hoặc trực chỉ huy, gây hậu quả nghiêm trọng cho hoạt động quân sự, chỉ huy, quản lý hoặc an toàn của đơn vị; xâm phạm kỷ luật, trật tự và sức mạnh sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy:
- 2 2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 409 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về bảo vệ theo Điều 410 Bộ luật Hình sự:
1. Khái quát về Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy:
1.1. Khái niệm:
Trong những năm gần đây, mặc dù công tác trực ban, trực chiến và trực chỉ huy trong Quân đội nhân dân Việt Nam được quy định chặt chẽ, duy trì thường xuyên, song thực tế vẫn còn xảy ra những vi phạm mang tính chủ quan, lơ là, thiếu trách nhiệm. Trong bối cảnh khoa học công nghệ, an ninh phi truyền thống và nguy cơ chiến tranh hiện đại ngày càng phức tạp thì việc duy trì nghiêm chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy càng có ý nghĩa sống còn. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đã quy định Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy nhằm răn đe, phòng ngừa và xử lý nghiêm các hành vi coi thường kỷ luật, gây nguy hại đến an toàn và sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy như sau:
“Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy là hành vi của người có trách nhiệm trong quân đội, không chấp hành nghiêm chỉnh quy định về chế độ trực ban, trực chiến hoặc trực chỉ huy, gây hậu quả nghiêm trọng cho hoạt động quân sự, chỉ huy, quản lý hoặc an toàn đơn vị.”
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy trong Bộ luật Hình sự 2015 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, pháp lý, xã hội và quốc phòng, thể hiện rõ vai trò của pháp luật trong việc xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Cụ thể:
- Thứ nhất: Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy góp phần bảo vệ tính kỷ luật, nghiêm minh và thống nhất trong quân đội, bảo đảm rằng mọi hoạt động trực ban, trực chiến, trực chỉ huy đều được thực hiện đúng quy trình, đúng người, đúng thời điểm. Quy định này phản ánh ý chí và quyết tâm của Nhà nước trong việc bảo vệ an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thông qua việc duy trì cơ chế sẵn sàng chiến đấu tuyệt đối trong mọi tình huống.
- Thứ hai: Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy có ý nghĩa giáo dục và răn đe sâu sắc, giúp cán bộ, chiến sĩ nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh giác và lòng trung thành với Tổ quốc. Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định trực không chỉ nhằm trừng phạt cá nhân sai phạm mà còn góp phần củng cố tinh thần đoàn kết, kỷ luật và danh dự người quân nhân cách mạng.
- Thứ ba: Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quân đội luôn duy trì tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao nhất, kịp thời phát hiện và xử lý mọi tình huống. Từ đó giúp ngăn ngừa các nguy cơ mất cảnh giác, rối loạn chỉ huy, sai sót trong điều hành, bảo vệ vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh Tổ quốc.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy hiện nay đang được quy định tại Điều 409 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
d) Trong tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.”
2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy:
2.1. Khách thể:
Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy xâm phạm trực tiếp đến: Chế độ của Quân đội nhân dân Việt Nam và sức mạnh, khả năng sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ của Quân đội.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực ban, trực chiến hoặc trực chỉ huy dẫn đến hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động quân sự, chỉ huy, quản lý hoặc an toàn của đơn vị.
“Không chấp hành nghiêm chỉnh” là thực hiện nhiệm vụ một cách lơ là, chậm trễ, hình thức hoặc tùy tiện, vi phạm các quy định về chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của người làm nhiệm vụ trực ban, trực chiến hoặc trực chỉ huy theo Điều lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm, thể hiện sự mất cảnh giác và coi nhẹ kỷ luật, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì trạng thái sẵn sàng chiến đấu của đơn vị.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “trực ban” là việc trực theo phiên làm việc để bảo đảm công tác được tiến hành liên tục; “trực chiến” là trạng thái luôn sẵn sàng chiến đấu khi có mệnh lệnh; còn “trực chỉ huy” là thực hiện nhiệm vụ trong tư thế sẵn sàng điều hành, chỉ đạo hoạt động của một lực lượng hoặc đơn vị quân đội. Như vậy, ba chế độ này là ba mắt xích quan trọng trong hệ thống bảo đảm an toàn, thông tin và chỉ huy của quân đội, bảo đảm cho lực lượng vũ trang luôn trong tư thế chủ động ứng phó với mọi tình huống.
Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp có nhiệm vụ cao cả là sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Vì đặc thù công tác quân sự diễn ra liên tục, không phân biệt ngày đêm, nên chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy được tổ chức luân phiên, nghiêm ngặt và có quy định cụ thể về trách nhiệm, kỷ luật. Do đó mọi hành vi lơ là, thiếu trách nhiệm hoặc tùy tiện trong thực hiện nhiệm vụ trực đều có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, thậm chí đe dọa đến an ninh quốc gia, an toàn lực lượng và cơ sở vật chất quân đội.
Trong cấu thành của tội phạm này, hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc. Hậu quả có thể là thiệt hại về vật chất (như tính mạng, sức khỏe, tài sản, vũ khí, trang bị kỹ thuật…) hoặc thiệt hại phi vật chất (như làm giảm uy tín, hiệu quả chiến đấu, rối loạn hệ thống chỉ huy, gây hoang mang trong đơn vị…). Khi hậu quả này xảy ra và chứng minh được mối quan hệ nhân quả trực tiếp với hành vi vi phạm thì tội phạm được coi là đã hoàn thành.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự năm 2015 mới có thể thực hiện tội phạm. Bao gồm:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng;
- Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;
- Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu;
- Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.
Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy được thực hiện do lỗi vô ý. Có thể là vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
- Vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
- Vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy:
Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy theo Điều 409 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Tội danh này không quy định hình phạt bổ sung.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 409 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy được quy định tại khoản 2 Điều 409 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
- Trong chiến đấu: Tình tiết này thể hiện mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Trực ban, trực chiến, trực chỉ huy là những chế độ quan trọng nhất trong thời điểm chiến đấu nhằm bảo đảm mệnh lệnh, chỉ huy, thông tin và phối hợp tác chiến được thông suốt, kịp thời và chính xác. Người không chấp hành nghiêm túc chế độ này trong khi chiến đấu có thể làm gián đoạn chỉ huy, chậm trễ truyền đạt mệnh lệnh hoặc xử lý tình huống sai lệch dẫn đến thiệt hại lớn về người, vũ khí, phương tiện và thất bại trong chiến dịch. Hành vi này xâm phạm trực tiếp đến sức mạnh chiến đấu và an ninh quốc gia, do đó đây được xem là tình tiết tăng nặng khung hìn phạt của Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy; đòi hỏi phải xử lý nghiêm khắc nhằm bảo đảm kỷ luật thép của quân đội trong điều kiện chiến tranh.
- Trong khu vực có chiến sự: Khu vực có chiến sự là nơi đang diễn ra hoặc có nguy cơ cao xảy ra xung đột vũ trang. Do đó mọi quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy đều có ý nghĩa bảo đảm an toàn tuyệt đối cho lực lượng và cơ sở quân sự. Khi người có trách nhiệm không chấp hành nghiêm chế độ này, hành vi đó làm mất khả năng kiểm soát tình huống, gây rối loạn hệ thống cảnh giới và chỉ huy, tạo điều kiện cho đối phương tấn công bất ngờ hoặc khai thác thông tin quân sự. Vì vậy, hành vi vi phạm trong khu vực có chiến sự có nguy cơ trực tiếp đe dọa an toàn của đơn vị và kết quả tác chiến.
- Trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn: Trong các hoạt động cứu hộ cứu nạn, đặc biệt ở những địa bàn hiểm trở, phức tạp, chế độ trực ban – trực chỉ huy đóng vai trò then chốt trong việc duy trì thông tin, điều hành lực lượng và đảm bảo an toàn cho cán bộ, chiến sĩ. Đây là hành vi thiếu trách nhiệm nghiêm trọng, đi ngược lại bản chất nhân đạo và kỷ luật của quân đội. Vì vậy được xem là tình tiết tăng nặng thể hiện mức độ nguy hiểm cao hơn so với hành vi tương tự xảy ra trong điều kiện thông thường.
- Trong tình trạng khẩn cấp: Đây là thời điểm mà đất nước hoặc lực lượng quân đội đang đối mặt với nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng như thiên tai, bạo loạn, xung đột hoặc đe dọa an ninh quốc gia… Trong hoàn cảnh đó, chế độ trực ban, trực chiến và trực chỉ huy là tuyến phòng thủ đầu tiên bảo đảm khả năng phản ứng nhanh, phát hiện và xử lý kịp thời mọi tình huống. Người vi phạm chế độ trực trong tình trạng này không chỉ thiếu tinh thần trách nhiệm mà còn đe dọa trực tiếp đến an ninh, tính mạng của nhân dân và an toàn của quốc gia.
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng: Tình tiết này phản ánh mức độ thiệt hại thực tế do hành vi vi phạm gây ra. Hậu quả rất nghiêm trọng có thể là làm mất khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị, thiệt hại lớn về tài sản quân đội, gây rối loạn công tác chỉ huy hoặc ảnh hưởng đến kết quả huấn luyện – chiến đấu. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là khi hành vi dẫn đến thiệt hại về sinh mạng, tổn thất vũ khí, phương tiện kỹ thuật hoặc làm thất bại kế hoạch tác chiến, đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc phòng của đất nước.
5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về bảo vệ theo Điều 410 Bộ luật Hình sự:
Tiêu chí | Tội vi phạm quy định về trực ban, trực chiến, trực chỉ huy (Điều 409 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vi phạm quy định về bảo vệ (Điều 410 Bộ luật Hình sự 2015) |
Đối tượng được bảo vệ | Bảo vệ kỷ luật, trật tự an toàn và tính sẵn sàng chiến đấu trong hoạt động trực ban, trực chiến, trực chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt Nam. | Bảo vệ chế độ, quy tắc và an toàn trong công tác tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống, đảm bảo an ninh an toàn cho người, tài sản, phương tiện và thiết bị quân sự. |
Chủ thể của tội phạm | Là quân nhân hoặc người được giao nhiệm vụ thực hiện chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy, có đủ năng lực và trách nhiệm trong hoạt động quân sự. | Là người được giao nhiệm vụ bảo vệ, tuần tra, canh gác, áp tải hoặc hộ tống trong quân đội, có trách nhiệm đảm bảo an toàn người, phương tiện, tài sản, trang thiết bị quân sự. |
Hành vi khách quan | Hành vi không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy, thực hiện một cách lơ là, chậm trễ hoặc tùy tiện, gây hậu quả nghiêm trọng cho hoạt động quân sự hoặc an toàn của đơn vị. | Hành vi không tuân thủ quy định về bảo vệ, tuần tra, canh gác, áp tải, hộ tống, dẫn đến thiệt hại về người, tài sản, phương tiện kỹ thuật hoặc thiết bị quân sự. |
Mục đích, lỗi của người phạm tội | Người phạm tội thường do lỗi cố ý hoặc vô ý vì thiếu trách nhiệm, chủ quan, lơ là và không tuân thủ nghiêm quy định về chế độ trực. | Người phạm tội thường do lỗi vô ý hoặc cố ý gián tiếp. Chủ yếu vì thiếu tinh thần trách nhiệm, buông lỏng quản lý hoặc coi thường kỷ luật bảo vệ. |
Hậu quả pháp lý của hành vi | Gây rối loạn hệ thống chỉ huy, làm giảm khả năng sẵn sàng chiến đấu, gây thiệt hại về người, tài sản hoặc đe dọa an ninh quốc gia. | Gây thiệt hại về người (người được bảo vệ bị thương hoặc chết), mất mát, hư hỏng tài sản, phương tiện, thiết bị quân sự; ảnh hưởng đến an toàn và hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ. |
Hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. |
THAM KHẢO THÊM: