Huyện Krông Năng là một huyện nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Đắk Lắk, thuộc vùng Tây Nguyên của Việt Nam. Huyện này được thành lập vào ngày 9 tháng 11 năm 1987 và có diện tích khoảng 641,79 km². Xin mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết sau Bản đồ, các xã phường thuộc huyện Krông Năng (Đắk Lắk).
Mục lục bài viết
1. Bản đồ hành chính huyện Krông Năng (Đắk Lắk):
2. Có bao nhiêu xã, phường thuộc huyện Krông Năng (Đắk Lắk)?
Huyện Krông Năng có 12 đơn vị hành chính cấp phường xã. Trong đó bao gồm 1 thị trấn, 11 xã.
Số thứ tự | Danh sách xã, phường |
1 | Thị trấn Krông Năng (huyện lỵ) |
2 | Xã Cư Klông |
3 | Xã ĐLiê Ya |
4 | Xã Ea Dăh |
5 | Xã Ea Hồ |
6 | Xã Ea Puk |
7 | Xã Ea Tam |
8 | Xã Ea Tân |
9 | Xã Ea Tóh |
10 | Xã Phú Lộc |
11 | Xã Phú Xuân |
12 | Xã Tam Giang |
3. Giới thiệu chung về huyện Krông Năng (Đắk Lắk):
Huyện Krông Năng có nét văn hóa của nhiều vùng miền do nhiều người dân ở các vùng khác tới rất nhiều, đặc biệt ở đây đa số là người Huế ở. Tại đây có thành lập Ngôi chùa Kim Quang tại xã Phú Sơn rất rộng lớn mang nét đặc trưng của xứ Huế.
Vị trí địa lý:
Huyện cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 55 km theo đường Quốc lộ 14, Quốc lộ 29. Trung tâm huyện có tuyến đường Quốc lộ 29 và đường tỉnh lộ 3 đi qua (Krông Năng – Ea Kar). Huyện có địa giới hành chính như sau:
-
Phía Đông giáp huyện Ea Kar
-
Phía Đông Bắc giáp huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai
-
Phía Tây giáp huyện Krông Búk
-
Phía Nam giáp thị xã Buôn Hồ và huyện Ea Kar
-
Phía Bắc giáp huyện Ea H’leo
Diện tích, dân số:
Huyện Krông Năng có tổng diện tích đất tự nhiên hơn 641,79 km2 và dân số khoảng 124.577 người (2018), mật độ dân số đạt khoảng 194 người/km².
Huyện có nhiều dân tộc cùng chung sống, mỗi dân tộc có những nét đẹp văn hóa riêng, đặc biệt là: Văn hóa truyền thống của các dân tộc Ê Đê, Tày,…; kiến trúc nhà sàn nhà rông; các nhạc cụ lâu đời, nổi tiếng như các bộ cồng chiêng,… là những sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể quý giá. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo nên sự đa dạng phong phú về văn hóa của huyện Krông Năng.
Địa hình:
Địa hình của huyện là đồi núi phân hóa, đa dạng về độ cao và độ dốc. Độ cao trung bình từ 600 đến 800 m so với mực nước biển. Phần lớn diện tích của huyện là đồi núi với nhiều dòng sông chảy qua. Ngoài ra, huyện Krông Năng cũng có nhiều thung lũng và đồng bằng nhỏ được tạo nên từ sự tích tụ của đất phù sa từ các con sông. Các loại đất chủ yếu của huyện là đất phù sa và đất đá vôi. Địa hình đa dạng của huyện tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp và du lịch sinh thái.
Khí hậu:
Có khí hậu mát mẻ, ôn hoà. Khí hậu khác nhau giữa các dạng địa hình và giảm dần theo độ cao: Vùng dưới 300 m quanh năm nắng nóng, từ 400 – 800 m khí hậu nóng ẩm và trên 800 m khí hậu mát. Tuy nhiên, chế độ mưa theo mùa là một hạn chế đối với phát triển sản xuất nông sản hàng hoá.
Khí hậu có 02 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10, tập trung 90% lượng mưa hàng năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể.
Tài nguyên khoáng sản:
Đá xây dựng bao gồm có đá bazan và đá granite. Đá bazan đã được khai thác ở khá nhiều điểm, song việc điều tra, quản lý còn nhiều hạn chế, đây là nguồn tài nguyên khá phong phú trên địa bàn. Đá granite có rất nhiều ở phía Bắc và Đông bắc tuy vậy điều kiện khai thác còn khó khăn về giao thông, nhu cầu hiện tại không lớn nên chưa đầu tư khai thác. Sét làm gạch ngói cũng đã có những kết luận ban đầu về trữ lượng và chất lượng ở một số điểm nhưng chưa được nghiên cứu đánh giá về giá trị công nghiệp và khả năng khai thác sử dụng.
Ngoài ra, huyện Krông Năng còn có vàng sa khoáng liên quan đến các trầm tích hiện đại ở thượng nguồn các suối lớn, tuy nhiên nhìn chung đây là huyện có tiềm năng khoáng sản không lớn, trên thực tế không phải là thế mạnh trong tương lai của Krông Năng. Riêng đá xây dựng có thể quy hoạch, quản lý khai thác đáp ứng nhu cầu xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng trên địa bàn.
Kinh tế:
Kinh tế của huyện chủ yếu dựa vào ngành nông nghiệp và lâm nghiệp. Trong lĩnh vực nông nghiệp, huyện Krông Năng có điều kiện thuận lợi để phát triển các loại cây trồng như cà phê, tiêu, cao su, chuối, xoài và các loại rau củ. Ngoài ra, huyện cũng có diện tích rộng lớn đất canh tác để phát triển đa dạng các mô hình nông nghiệp hỗ trợ sinh kế cho người dân như chăn nuôi gia súc, trồng cây công nghiệp như cây cào lửa và sưa đỏ.
Về lâm nghiệp, huyện Krông Năng có nhiều khu rừng phong phú, trong đó rừng đặc dụng là một điểm mạnh để phát triển du lịch sinh thái. Huyện cũng có nhiều cơ sở sản xuất gỗ công nghiệp như trạm lắp ráp và gia công gỗ. Tuy nhiên, việc khai thác rừng cần được quản lý một cách bền vững để bảo vệ nguồn tài nguyên.
Ngoài ra, huyện Krông Năng cũng đang phát triển các ngành công nghiệp khác như sản xuất nước giải khát, chế biến gỗ, sản xuất đồ gia dụng và may mặc.
Nói chung, kinh tế huyện Krông Năng vẫn còn khá khó khăn trong việc phát triển kinh tế bền vững và hiệu quả cao do còn gặp nhiều thách thức như khó khăn trong vấn đề giáo dục y tế và vốn đầu tư. Tuy nhiên, với những nỗ lực của chính quyền địa phương và sự hỗ trợ của chính phủ, hy vọng huyện Krông Năng sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn trong tương lai.
4. Lịch sử hình thành huyện Krông Năng (Đắk Lắk):
Tên huyện được đặt theo tên của sông Krông Năng, con sông chảy qua địa bàn huyện và là một phụ lưu của sông Ba.
Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, huyện Krông Năng ngày nay là một phần quận Buôn Hồ, tỉnh Darlac.
Sau năm 1975, quận Buôn Hồ đổi thành huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
Huyện Krông Năng được thành lập vào ngày 9 tháng 11 năm 1987 theo Quyết định số 212/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng trên cơ sở tách 6 xã: Dliê Ya, Ea Hồ, Krông Năng, Phú Lộc, Phú Xuân và Tam Giang thuộc huyện Krông Búk.
Ngày 26 tháng 1 năm 1989, thành lập 2 xã Ea Tóh và Ea Tam.
Ngày 27 tháng 7 năm 1999, chuyển xã Krông Năng thành thị trấn Krông Năng (thị trấn huyện lỵ huyện Krông Năng).
Ngày 29 tháng 8 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 100/2003/NĐ-CP. Theo đó:
-
Thành lập xã Cư Klông trên cơ sở 3.945 ha diện tích tự nhiên và 705 người của xã Dliê Ya, 3.738 ha diện tích tự nhiên và 3.331 người của xã Ea Tam
-
Thành lập xã Ea Tân trên cơ sở 5.353 ha diện tích tự nhiên và 8.681 người của xã Dliê Ya.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ban hành Nghị quyết 22/2003/QH11 chia tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông[4], huyện Krông Năng thuộc tỉnh Đắk Lăk.
Ngày 23 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 40/2005/NĐ-CP. Theo đó:
-
Thành lập xã Ea Dăh trên cơ sở 1.950 ha diện tích tự nhiên và 2.854 người của xã Phú Xuân, 3.274 ha diện tích tự nhiên và 2.507 người của xã Tam Giang.
-
Thành lập xã Ea Púk trên cơ sở 4.376 ha diện tích tự nhiên và 3.791 nhân khẩu của xã Tam Giang.
Huyện Krông Năng có 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay.
5. Quy hoạch sử dụng đất huyện Krông Năng (Đắk Lắk) đến năm 2030:
Ngày 13/5/2022, UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 1104/QĐ-UBND về việc phê duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030, huyện Krông Năng.
Cụ thể, phương án quy hoạch sử dụng đất để năm 2030 với tổng diện tích 61.461,95 hecta, trong đó:
-
Diện tích đất nông nghiệp 54.231,52 ha
-
Đất phi nông nghiệp 7.214,40 ha
-
Đất chưa sử dụng 16,03 ha
Diện tích chuyển mục đích sử dụng đất trong kỳ quy hoạch:
-
Đất nông nghiệp chuyển qua phi nông nghiệp 2.238,58 ha
-
Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trong nội bộ đất nông nghiệp là 35,17 ha
-
Đất phi nông nghiệp không phải là đất ở chuyển sang đất ở 22,75 ha
Diện tích đất chưa sử dụng đưa vào sử dụng cho các mục đích trong kỳ quy hoạch:
-
Đất nông nghiệp 101,44 ha
-
Đất phi nông nghiệp 18,91 ha
THAM KHẢO THÊM: