" Huyện Trìa xử án" là một tác phẩm nổi tiếng của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Vở tuồng đã tái hiện một cách đầy sống động bức tranh xã hội trong thời kì phong kiến. Bài viết dưới đây là mẫu phân tích nhân vật Huyện Trìa trong Huyện Trìa xử án. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích nhân vật Huyện Trìa trong Huyện Trìa xử án:
* Mở bài:
– Giới thiệu vở kịch, đoạn trích, nhân vật.
* Thân bài:
Phân tích nhân vật:
– Địa vị: tri huyện.
– Hoàn cảnh gia đình: giàu có nhưng không phải là một gia đình hạnh phúc, đầm ấm.
– Tính cách:
+ Nhát gan: khi ra khỏi nhà thì sợ hãi bỏ chạy vì bị bà nội ngăn cách, nhưng khi ở đó lại cảm thấy khó chịu, bồn chồn.
+ Tham lam: coi trọng tiền bạc, “lấy tiền thẳng thừng”.
+ Hách dịch: có quyền uy hiếp, bóc lột của cải của nhân dân.
+ Trăng hoa, quan hệ trai gái lăng nhăng: “Hoa nguyệt hôm mai thong thả.”
– Cách xử án: Phân xử không công bằng, nghiêm minh
+ Thị Hến là người bị kiện nhưng khi nghe được tình tiết và những lời nói ngọt ngào của Thị Hên, huyện Trí đã mủi lòng, tạo điều kiện để Thị Hến thắng kiện.
=> Qua cách xử án, tên Huyện Trìa vừa là kẻ háo sắc, vừa đê tiện, xấu xa.
Đánh giá nhân vật:
– Thông qua nhân vật, tác giả dân gian mong muốn:
+ Thể hiện thái độ hoàn hảo, mỉa mai đối với những người đứng đầu bộ máy cai trị trong xã hội phong kiến.
+ Phơi bày sự tàn phá, suy tàn của xã hội phong kiến.
+ Thể hiện sự cảm thông, thương xót đối với những “con người nhỏ bé”.
– Nhân vật được miêu tả qua lời nói và hành động.
* Kết bài:
– Khẳng định giá trị, ý nghĩa của nhân vật đối với đoạn trích và vở tuồng.
2. Phân tích nhân vật Huyện Trìa trong Huyện Trìa xử án:
Qua văn bản “Huyện Trìa xử án”, tác giả dân gian muốn tố cáo, phê phán những quan lại tham ô trong xã hội phong kiến, mà tiêu biểu trong đoạn trích là nhân vật Huyện Trìa xử án nơi công đường.
Trước hết, qua lời xưng danh, người đọc đã hình dung được những hình ảnh ban đầu về cái tên Huyện Trìa, kẻ đứng đầu chốn nha môn của một huyện. Người ta thường ca ngợi hắn “Cầm đường ngày tháng vào ra,/ Hoa nguyệt hôm mai thong thả”. Thực ra, câu nói này là sự châm biếm, mỉa mai của dân làng đối với quan huyện.
Tuy giàu có tiền bạc, uống rượu bằng những chiếc làm từ sừng tê giác, nhưng cuộc sống hôn nhân của hắn với mụ không được hạnh phúc và viên mãn. Vì bản tính đố kỵ, hay ghen nên mụ thường lớn tiếng với chồng. Mỗi lần ra ngoài, Huyện Trìa đều rụt rè, sợ hãi. Ở nhà thì lòng khó chịu không yên. Thật khác xa với một quan huyện kiêu ngạo, hống hách trong triều đình!
Không chỉ là một tên quan huyện lăng nhăng, hắn còn là một kẻ tham lam, kiêu ngạo, chuyên đàn áp người dân vô tội. Hắn rất coi trọng đồng tiền, luôn “Thẳng tay một mực ăn tiền”. Bất kể phụ nữ, đàn ông, già, trẻ, quan huyện đều xử phạt bằng đòn roi. Là một người thực thi công lý nhưng lại làm việc theo cảm tính, không đề cao pháp luật “Luật không hay (thời ta) xử theo trí” khiến dân chúng không phục.
Thậm chí, hắn còn lại là một kẻ gian trá, chuyên đâm sau lưng, nịnh nọt quan trên. Bất cứ nơi nào “tốt tiền tốt bạc”, dù phải mất nhiều công sức và của cải, hắn cũng sẵn lòng đi lo.
Bộ mặt xấu xa, đê tiện của tên quan huyện có thể thấy rõ nhất ở quá trình xử án. Hắn phân xử một cách bừa bãi, không có căn cứ, làm việc thiếu nghiêm minh. Khi nghe Thị Hến trình bày hoàn cảnh của mình, thói háo sắc liền trỗi dậy. Động lòng thương, một mặt, hắn tỏ vẻ nghiêm nghị “Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt/ Kẻo hai đàng cua nói có, vọ nói không”, mặt khác, hắn cố tình tạo điều kiện cho Thị Hến thoát tội. Biết Thị Hến chấp nhận đề nghị của mình, tên Huyện Trìa liền yêu cầu Đề Hầu làm tờ khai cho Thị Hến. Cuộc xử án kết thúc với việc vợ chồng Trùm thú nhận tội lỗi và “lui về bổn quán”. Hắn tuyên án vô lý, không theo đúng tội trạng dù có bằng chứng rõ rành rành. Kẻ có tội được coi là vô tội trong chốc lát, còn kẻ kêu cứu bỗng chốc trở thành phạm nhân.
Thông qua tác phẩm Huyện Trìa xử án, tác giả đã khéo léo khắc họa nhân vật bằng lời nói và hành động, nghệ thuật châm biếm độc đáo kết hợp với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, thể hiện thái độ mỉa mai đối với những tên quan ô lại. Đồng thời qua đó cũng phê phán bọn đứng đầu bộ máy cai trị chuyên sách nhiễu, hãm hại nhân dân.
3. Phân tích nhân vật Huyện Trìa trong Huyện Trìa xử án hay nhất:
Qua nhân vật Huyện Trìa trong tác phẩm “Huyện Trìa xử án”, tác giả đã bày tỏ thái độ, suy nghĩ của mình về những người đứng đầu bộ máy cai trị. Ngay từ đầu đoạn trích, người đọc đã có thể hình dung nhân vật Huyện Trìa qua lời tự giới thiệu:
“Tri huyện Trìa là mỗ
Nội hạt tiếng khen khen ta:
Cầm đường ngày tháng vào ra,
Hoa nguyệt hôm mai thong thả.
[…] Đồ hành khiển nhiều mâm cũng đặng”.
Có thể thấy, hắn là một nhân vật quan trọng trong bộ máy chính quyền. Trong những lời khen của dân làng, có ẩn chứa sự mỉa mai, châm biếm đối với tên Huyện Trìa. Đối với hắn, chuyện trai gái cũng thong thả, thảnh thơi như làm quan. Điều đó chứng tỏ quan huyện là một kẻ lăng nhăng, phóng túng.
Chẳng những thế, hắn còn cực kỳ tham lam, ngạo mạn, chuyên lấy tiền hối lộ của người dân. Luật pháp của hắn được xử theo đồng tiền. Không phân biệt tuổi tác, giới tính, hắn đều nhắm mắt dùng đòn roi, gậy phạt.
Ở ngoài công đường, hắn vẫn hiên ngang, ngạo mạn, thế nhưng khi về nhà, hắn trở nên hèn nhát và yếu ớt. “Hễ đi mô cả tiếng run en,/ Ngồi lại đó tấc lòng buồn bực”. Ra ngoài thì sợ vợ, nhưng ngồi nhà thì khó chịu, bực tức trong người. Lúc này, tên tri huyện rơi vào tình thế “đi không được, ở không xong”. Như vậy, dưới ngòi bút của tác giả, người đọc có được góc nhìn chi tiết về nhân vật Huyện Trìa. Hắn không chỉ là một kẻ tham lam, độc ác mà còn là kẻ gian dối, sợ vợ.
Tính cách và đặc điểm của tên tri huyện càng được khắc họa rõ nét hơn qua cảnh xử án. Mặc dù đang làm việc, nhưng hắn lại phân xử thiếu công bằng và hết sức vô lý. Tất cả các phán quyết đều đưa ra dựa trên cảm tính, sắc dục. Buổi phân xử vừa mới bắt đầu, tên tri huyện đã kêu than:
“Ngồi lâu thời mỏi,
Nó nói kéo dài,
Lão Đề lấy tờ khai,
Đặng ta toan làm án.”
Nghe Thị Hến giải thích, Huyện động lòng thương. Bề ngoài, hắn nói: “Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt/ Kẻo hai đàng cua nói có, vọ nói không.” Nhưng sau lưng, hắn lại sai người đến thẩm vấn Thị Hến trước. Mục đích là bảo vệ và gianh phần có lợi cho thị. Hắn trơ trẽn và vô liêm sỉ nói trước quan đường:
“Việc phải, không, vốn ta chưa tỏ,
Thấy đơn cô chút chạnh lòng thương
Phải năng lên hầu gần quan
Ai dám nói vu oan gieo họa.”
Tên tri huyện bày cho Thị Hến trốn tội bằng cách thường xuyên đến hầu hạ cho hắn. Có như vậy, hắn mới tạo điều kiện cho Thị Hến thoát tội. Nghe Thị Hến đồng ý, tên Huyện Trìa đồng ý xử lý vụ án thuận lí. Cuối cùng, hắn coi quyền hành và chức vụ của mình như trò đùa khi đưa ra phán quyết cực kỳ bất công:
“Nguyên tang không phải đó,
Tình trạng nghiệm là phi.
Ỷ phú gia hống hách,
Hiếp quả phụ thân cô,
Cứ lấy đúng pháp công,
Tội cả vợ lẫn chồng,
Ta thứ liền ông, liền mụ.”
Rõ ràng, Thị Hến là người có tội vì đã tiêu thụ đồ ăn cắp. Tang chứng, vật chứng rõ ràng, thế mà quan huyện lại kết tội vợ chồng Trùm Sò cậy nhà giàu có, để áp bức quả phụ. Cuối cùng, kẻ có tội lại được minh oan, người vô tội trong phút chốc trở thành phạm nhân.
Như vậy, Huyện Trìa đã hiện lên một cách chân thực với vẻ ngoài độc ác, phóng đãng. Bằng cách khắc họa nhân vật qua lời nói và hành động, tác giả dân gian muốn thể hiện thái độ châm biếm, mỉa mai đối với những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị. Đồng thời, vạch trần sự thối nát, hoang tàn của xã hội phong kiến, thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với những con người “thấp hèn”.
Có thể nói, nhân vật Huyện Trìa đã góp phần tạo nên thành công của toàn bộ trích đoạn “Huyện Trìa xử án” cũng như vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến”. Hiểu về nhân vật, chúng ta đồng cảm hơn với nỗi buồn và bất hạnh của người dân trong chế độ cũ.