Thủy tức sống ở đâu? Môi trường sống của thủy tức là gì? Là những câu hỏi được rất nhiều người quan tâm về loại sinh vật này. Hãy cùng chúng mình tìm hiểu tất cả những sự thật thú vị về thủy tức ngay nhé!
Mục lục bài viết
1. Thủy tức sống ở đâu? Môi trường sống của thủy tức là gì?
1.1. Thủy tức là gì?
Thủy tức thuộc nhóm ngành ruột khoang sống được ở các vùng nước ngọt như ao, hồ, đầm phá… Đây là động vật bậc thấp, hình ống dài, có nhiều xúc cảm hướng tới đối tượng để lần theo các giá trị có thể di chuyển theo kiểu Đo sâu và lộn ngược. Tên của chi này theo danh pháp khoa học là Hydra.
Chúng có nguồn gốc từ vùng ôn đới và nhiệt đới. Các nhà sinh vật học đặc biệt quan tâm đến động vật thủy sinh vì khả năng tái sinh của loài động vật này. Chúng dường như không chết vì tuổi già, hoặc không bao giờ già đi.
Khả năng này là có thể bởi vì hầu hết các tế bào của cơ thể là tế bào gốc. Các tế bào có thể phân chia liên tục, không giống như bất kỳ loại tế bào nào khác trong cơ thể. Ở người, dạng tế bào này chỉ xuất hiện trong vài ngày đầu phát triển của thai kỳ. Ngược lại, hydra thường xuyên làm trẻ hóa cơ thể bằng các tế bào mới.
Trong môi trường tự nhiên, dịch bệnh, động vật ăn thịt và ô nhiễm nguồn nước thường giết chết động vật thủy sinh trước khi chúng đạt đến mức độ bất tử. Nghiên cứu thủy văn có thể giúp các nhà khoa học hiểu lý do tại sao hầu hết các loài động vật già đi.
1.2. Thủy tức sống ở đâu?
Thủy tức được biết đến là một chi động vật bậc thấp thuộc ngành sinh vật biển, sống ở ao hồ, đầm, lầy… Thủy tức là sinh vật ở môi trường trên cạn, chúng sống bám vào các loài thực vật thủy sinh như rong rêu, nước. rau chân vịt. Với một ống dài, cơ thể loại bỏ cảm xúc của đối tượng để theo dõi các giá trị có thể và di chuyển theo kiểu lộn ngược và sâu đo.
Chúng xuất hiện từ các vùng nhiệt đới và ôn đới. Các nhà sinh vật học đặc biệt quan tâm đến hydra do khả năng tái sinh trên giường vì chúng không bao giờ già đi hoặc chết vì tuổi tác.
2. Hình thức bên ngoài và cơ chế hoạt động của thủy tức:
Thủy tức có khoang ruột rõ ràng và đã phát triển quá trình tiêu hóa ngoại bào, cắt nhỏ thức ăn để đưa vào nội bào (tiêu hóa nội bào). Túi tiêu hóa của thủy tức là chỉ có một đầu ra vừa là thú vừa là hậu môn), khi ăn chúng cần tiêu hóa hết rồi mới nhổ các chất cặn bã ra ngoài mới ăn thức ăn khác.
Vì vậy, chúng không thể dự trữ thức ăn dự trữ quá lâu trong cơ thể và tận dụng quá trình tiêu hóa nội bào để tiêu hóa thức ăn vừa đưa vào cơ thể một cách nhanh chóng.
2.1. Cấu tạo thành ngoài cơ thể thủy tức:
Thủy tức là đại diện của trường đại khoang trong môi trường nước ngọt. Chúng sống bám vào các loài thực vật thủy sinh như rau muống, tảo ở ruộng, ao, hồ,… Thành cơ thể có 2 lớp tế bào và lớp keo xen kẽ.
Thành ngoài của thủy tức có các tế bào như:
Tế bào mô bì: hình trụ có mầm, chứa nhân bên ngoài và cơ xếp dọc theo chiều dài của cơ và có thể cả bên trong, giữ chức năng bảo vệ mô bì và tạo nên tần số co bóp dọc của cơ.
Tế bào gốc: phân bố khắp cơ thể nhưng tập trung nằm ở phía sau, chịu trách nhiệm tấn công và phòng thủ.
Tế bào cảm giác: hình nằm ở giữa tế bào cơ bì, có sợi cảm giác hướng ra ngoài và rễ phân nhánh trong chất keo.
Tế bào thần kinh: hình sao, hai đầu riêng biệt nối với nhau trong lớp keo tạo thành mạng lưới thần kinh đặc trưng ở ruột khoang. Mạng lưới này liên kết với tế bào gốc và tế bào gốc cảm giác tế bào vảy tạo thành các cung phản xạ, mặc dù đơn giản nhưng cũng lần đầu tiên xuất hiện ở động vật đa bào.
Tế bào sinh sản: Tế bào trứng hình thành từ tuyến cầu, tinh trùng hình thành từ tuyến vú.
Tế bào trung gian: là những tế bào nhỏ chưa phân hóa, nằm trên tần keo, có thể hình thành tế bào vảy để thay thế chúng sau hoạt động hoặc tạo tế bào sinh dục.
Trong thời gian giới hạn cho đến khi mang thai sẽ bao gồm 2 tế bào:
Tế bào cơ tiêu hóa: có các tế bào gốc xếp thành hình kính vuông góc với hướng của mô bào bên ngoài. Khi hoạt động hình thành một tần suất phản đối việc rút tiền từ bên ngoài. Phần hướng vào khoang tế bào có 1-2 roi, có thể tạo chân giả để bắt giữ các cấu trúc nhỏ để tiêu hóa nội bào.
Tế bào tuyến: là tế bào kẽ của mô da tiêu hóa, số lượng ít. Chúng tiết dịch tiêu hóa trong khoang dạ dày và tiêu hóa ngoại bào. Như vậy, ruột khoang có sự chuyển tiếp giữa tiêu hóa nội bào, tiêu hóa đơn bào, sang tiêu hóa ngoại bào, tiêu hóa đa bào. Thức ăn của thủy sản chủ yếu là các loài giáp xác nhỏ.
2.2. Cách thủy tức trao đổi chất dinh dưỡng:
Thủy tức gồm các tế bào gai có chức năng phòng vệ và săn mồi. Khi đói, nước lập tức vươn ra xung quanh. Khi trùm chuột (không giới hạn ở rận nước) lập tức kích hoạt các tế bào gai ở xúc tu hút làm tê liệt con mồi. Trong khi bạn có gai, rô-bốt đặt nó lên nệm, sau đó hút vào bụng của nó và thực hiện quá trình tiêu hóa nội bào. Thủy tức thực hiện quá trinh lọc bỏ mùi hôi, trao đổi khí được thực hiện khắp cơ thể.
2.3. Quá trình sinh sản của thủy tức diễn ra như thế nào?
Trong điều kiện thuận lợi, thủy tức sinh sản vô tính bằng cách nảy chồi, nhưng trong điều kiện khó khăn, nó chuyển sang sinh sản hữu tính. Hợp tử được tạo thành có vỏ bọc bảo vệ và sống không hoạt động cho đến khi gặp điều kiện thuận lợi tiếp tục phát triển.
Thủy tức sinh sản vô tính
Sinh sản hữu tính: Điều kiện sống khó khăn chuyển sang sinh sản hữu tính, tế bào trứng được thụ tinh bởi tinh trùng đực. Sau khi thụ tinh, phân tích một đường thành nhiều lần rồi tạo thành nước con. Sinh sản hữu tính xảy ra khi thiếu thức ăn trong mùa lạnh.
Tái sinh: Hợp tử được hình thành có vỏ bọc bảo vệ, sống tiềm tàng cho đến khi gặp điều kiện thuận lợi trở lại rồi tiếp tục phát triển. Nước tức là có thể tái tạo toàn bộ cơ thể khi chỉ còn một bộ phận trong điều kiện môi trường đặc biệt
3. Câu hỏi về Môi trường sống của thủy tức?
Hãy cho biết thủy tức sống ở môi trường nao?
A. Nước ngọt
B. Nước mặn
C. Nước lợ
D. Trên bờ
Đáp án đúng A.
Môi trường sống của thủy tức là nước ngọt.
Giải thích chọn đáp án A là:
– Thủy nghĩa là đại diện của ngành ruột khoang ở môi trường nước ngọt. Chúng thường bám vào các loại thực vật thủy sinh (tảo, rau muống…) ở các giếng nước, ao, hồ…
– Thủy tức có nghĩa là hình trụ dài. Phần thân dưới có một cơ sở để theo dõi giá trị có thể. Phần trên có lỗ, xung quanh lỗ của bạn rất dài. Các cơ sở có thể có đối xứng tròn, dài và nhỏ.
Thủy tức luôn chuyển động theo hướng ánh sáng theo 2 cách:
+ Kiểu di chuyển của máy đo sâu: di chuyển từ trái sang phải, lúc đầu cắm xuống làm trụ, sau co lên, trườn thân di chuyển
+ Di chuyển lộn đầu: di chuyển từ trái sang phải, để làm thân, bắt đầu đi xuống, lấy đầu làm thân, sau đó ổ cắm xuống đất di chuyển liên tục như vậy.
Thành cơ thể: Có hai lớp tế bào: lớp ngoài và lớp trong. Giữa hai lớp đó là lớp keo bề mặt.
Lớp ngoài bao gồm bốn loại tế bào:
+ Tế bào gai: tế bào hình túi, bên ngoài có gai cảm giác (1); có đoạn kéo dài, đoạn cuối, đoạn xoắn trong (2). Khi bị kích thích, gai độc phóng vào con mồi
+ Tế bào thần kinh: Tế bào hình sao, có gai nhô ra ngoài, bên trong phân nhánh, liên kết với nhau tạo thành mạng lưới thần kinh dạng lưới.
Tế bào sinh sản:
Tế bào trứng (3) hình thành từ tuyến cầu (5) thành công
Tinh trùng (4) hình thành từ tuyến vú (ở con đực).
+ Tế bào mô-cơ:
Chiếm gần hết lớp ngoài: phần ngoài bao bọc, phần trong các liên kết khác giúp cơ thể co rút theo chiều dọc.
– Lớp trong là tế bào mô cơ-tiêu hóa. Chiếm chủ yếu lớp trong: bên trong có 2 roi và không có tế bào tiêu hóa, làm nhiệm vụ tiêu hóa thức ăn. Liên kết bên ngoài giúp cơ thể nằm ngang.
– Xúc tu nước bao gồm nhiều tế bào gai có chức năng tự vệ và bắt mồi. Khi đói, cơn nóng giận kéo dài gây cảm giác buồn nôn xung quanh. Vô tình gặp phải lừa (rận nước), lập tức thiết bào gai ở xúc tu hút làm tê liệt con mồi. Trong khi bạn cho robot có gai vào bụng, thì em bé trong bụng sẽ thực hiện quá trình tiêu hóa ngoại bào.
– Quá trình tiêu hóa não úng thủy được thực hiện trong ống tiêu hóa nhờ sự phục vụ của các tế bào tuyến.
– Do cơ thể có cấu tạo dạng túi, chỉ có một lỗi thông với bên ngoài nên chất thải được thải ra bên ngoài qua lỗi.
Nước tức là không có cơ quan hô hấp, sự trao đổi khí được thực hiện khắp cơ thể.