Nội dung chính giai đoạn lịch sử Campuchia từ 1945-1993 bao gồm nhiều sự kiện quan trọng. Vào năm 1945, Campuchia trở thành một quốc gia độc lập sau khi Nhật Bản đầu hàng trong Thế chiến II. Tuy nhiên, năm 1970, một cuộc đảo chính đã lật đổ chính phủ của và bắt đầu thời kỳ Chiến tranh Dân tộc Campuchia.
Mục lục bài viết
1. Nội dung chính giai đoạn lịch sử Campuchia từ 1945-1993:
Tháng 10-1945, thực dân Pháp xâm lược bắt đầu Campuchia. Tài thời điểm này Campuchia đang đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Đông Dương để chống lại thực dân Pháp. Năm 1951, đang Đông Dương chính thức tách ra tại ba nước Đông Dương mỗi nước một đảng độc lập theo tình hình lịch sử Đảng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập.
Ngày 9-11-1953, chính phủ Pháp kí kết hiệp ước trao trả độc lập cho Campuchia nhờ hoạt động ngoại giao của quốc vương N. Xihanuc. Tuy nhiên, Pháp vẫn chiếm đóng nước này.
Sau chiến thắng điện biên phủ ở Việt Nam, năm 1954, kí hiệp ước Giơnevơ công nhận độc lập chủ quyền nước Campuchia.
Từ năm 1954 đến 1970, chính phủ Xihanuc thực hiện đường lối hòa bình trung lập không tham gia bất cứ khối liên minh chính trị nào.
Ngày 18-3-1970, chính phủ Xihanuc bị lật đổ bởi tay sai của Mĩ. Từ đó, nhân dân Campuchia sát cánh cùng nhân dân Việt Nam và Lào đấu tranh chống Mĩ, giành thắng lợi từng bước.
Ngày 17-4-1975, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng. Chiến tranh chống Mĩ kết thúc.
Tập đoàn Khơme đỏ do Pôn Pốt cầm đầu ngay sau đó lập tức phản bội cách mạng và thi hành chính sách diệt chủng tàn sát người dân vô tội.
Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng nhờ sự giúp đỡ của quân đội tình nguyện Việt Nam. Nước Cộng hòa nhân dân Campuchia được thành lập.
Từ năm 1979, Campuchia diễn ra cuộc nội chiến giữa đảng nhân dân Cách mạng với phe phái đối lập chủ yếu vẫn là Khơme đỏ.
Nước Campuchia đã đi đến thỏa thuận giải hòa với sự giúp đỡ của quốc tế. Tháng 9-1993, quốc hội họp và thông qua hiến chương, tuyên bố thành lập Vương quốc Campuchia, mở ra một thời kỳ mới cho nước này.
2. Nêu các giai đoạn lịch sử của Campuchia từ năm 1945 – 1993:
2.1. Giai đoạn 1945 – 1954:
Trong thời gian này, cả nước Campuchia đã đồng lòng chống lại sự thực dân hóa của Pháp và đòi độc lập dân tộc. Vào đầu tháng 10 năm 1945, Pháp đã quay trở lại xâm lược Campuchia và đây là lúc nhân dân Campuchia bắt đầu cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của Pháp. Cuộc kháng chiến đã kéo dài suốt giai đoạn này và cho đến khi Pháp ký kết hiệp ước trao trả độc lập cho Campuchia vào ngày 9 tháng 11 năm 1953, họ đã chiếm đóng đất nước này. Tuy nhiên, Pháp vẫn tiếp tục duy trì sự chiếm đóng đất nước này, khiến cho người dân Campuchia tiếp tục đấu tranh cho quyền độc lập của mình. Vào năm 1954, Chính phủ Pháp đã ký Hiệp định Giơnevơ công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia.
2.2. Giai đoạn 1954 – 1970:
Sau khi đạt được độc lập, Chính phủ Xihanúc đã thực hiện đường lối hòa bình, trung lập và không tham gia bất cứ khối liên minh quân sự chính trị nào. Chính phủ này đã tiếp nhận viện trợ từ mọi phía mà không có bất kỳ điều kiện ràng buộc nào, đánh dấu một thời kỳ phát triển và hưng thịnh của Campuchia. Nhờ vậy, nền kinh tế Campuchia đã được đẩy mạnh phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và chế biến lâm sản. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, cũng đã xảy ra những vấn đề về chính trị và kinh tế mà Campuchia phải đối mặt và vượt qua để tiếp tục phát triển. Trong thời gian này, các bên liên quan đã tham gia vào các cuộc đàm phán và thương lượng để giải quyết các vấn đề này, tuy nhiên, không phải tất cả các vấn đề đều được giải quyết một cách suôn sẻ.
2.3. Giai đoạn 1970 – 1975:
Trong giai đoạn này, Campuchia đã phải đối mặt với nhiều thử thách và khó khăn khi quốc gia này bị cuốn vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian này, Chính phủ Xihanúc đã bị lật đổ và thay thế bởi một chính phủ chiến tranh mới. Chính phủ mới này đã thực hiện nhiều chính sách khắc nghiệt, nhưng đã không đạt được sự ủng hộ của nhân dân Campuchia. Cuối cùng, vào năm 1975, Campuchia đã rơi vào tay của một nhóm cách mạng và chính phủ mới đã được thành lập. Tuy nhiên, sự thay đổi này đã mang lại nhiều hậu quả xấu cho Campuchia, và nước này đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc tái thiết kinh tế và xây dựng lại đất nước sau cuộc chiến tranh.
2.4. Giai đoạn 1975 – 1979:
Trong giai đoạn này, Campuchia đã chịu sự cai trị của một chính phủ cách mạng mới. Chính phủ này đã thực hiện một chính sách độc tài và cộng sản, và đã thực hiện nhiều cuộc đàn áp nhân dân và sát hại hàng nghìn người dân vô tội. Quân đội Campuchia cũng đã tấn công các khu vực biên giới của Việt Nam, dẫn đến một cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia. Cuối cùng, vào năm 1979, quân đội Việt Nam đã đánh bại quân đội của chính phủ Campuchia và lật đổ chính phủ cách mạng này. Khi đó, một chính phủ mới được thành lập và đất nước Campuchia bắt đầu tiến vào giai đoạn tái thiết kinh tế và xây dựng lại đất nước.
2.5. Giai đoạn 1979 – 1993:
Sau khi đánh bại chính phủ cách mạng, Campuchia đã trở thành một quốc gia thuộc về Việt Nam, và các nước phương Tây đã áp đặt lệnh trừng phạt và chính sách cô lập đối với Campuchia. Tuy nhiên, vào năm 1991, các bên liên quan đã đàm phán và ký kết một hiệp định giải quyết các vấn đề chính trị và xã hội trong đất nước này. Cuối cùng, vào năm 1993, một chính phủ mới đã được thành lập và Campuchia đã trở thành một quốc gia độc lập hoàn toàn. Tuy nhiên, đất nước này vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trong việc tái thiết kinh tế và xây dựng lại đất nước sau nhiều năm chiến tranh và xung đột.
3. Việt Nam và Campuchia phối hợp trong thời kỳ chiến tranh:
Theo sử liệu Nam Bộ kháng chiến, Việt Nam – Campuchia – Lào đã chung tay chống lại chiến tranh tái chiếm xâm lược thuộc địa của thực dân Pháp trong những năm 1945 – 1954. Họ đã giúp đỡ và phối hợp tác chiến quân sự để thất bại các kế hoạch chiến tranh của Pháp và can thiệp Mỹ.
Ở Nam bộ, nhân dân đã đứng lên hình thành mặt trận chiến tuyến ở Sài Gòn từ ngày 23/9/1945. Cùng với các địa phương, họ đã ngăn chặn địch mở rộng chiến tranh xâm lược. Năm 1946, các lực lượng cách mạng ở Nam bộ đã hình thành căn cứ địa cách mạng ở cả hai biên giới Việt Nam – Campuchia để phối hợp với lực lượng kháng chiến Campuchia.
Đảng bộ Cao Miên được hình thành và củng cố từ năm 1947, do Sơn Ngọc Minh làm Bí thư kiêm Bí thư Đảng bộ Tây Nam Cao Miên và Phạm Văn Xô làm phó bí thư toàn miền kiêm Bí thư Đảng bộ Tây Bắc Cao Miên. Được sự giúp đỡ của Xứ ủy Nam bộ, những người kháng chiến Campuchia đã tiến hành Đại hội quốc dân từ ngày 17 đến ngày 19/4/1950, quy tụ 200 đại biểu đại diện cho toàn quốc, nhất trí đề ra đường lối kháng chiến và thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất, Liên minh Việt – Miên – Lào. Đại hội bầu ra Ủy ban Dân tộc Trung ương tức Chính phủ kháng chiến Campuchia, do Sơn Ngọc Minh làm Chủ tịch; đồng thời thành lập Mặt trận Khmer Ixarắc.
Chủ tịch Sơn Ngọc Minh đã đọc bản tuyên ngôn kêu gọi toàn dân đoàn kết đấu tranh chống kẻ thù giành độc lập cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân dân vào ngày 19/4/1950. Sau đó, quân đội Ixarắc thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang trong toàn quốc thành quân đội cách mạng vào ngày 19/6/1951. Xứ ủy Nam bộ tiếp tục giúp đỡ những người cộng sản Campuchia củng cố, phát triển các cơ sở Đảng Cộng sản ở Campuchia sau Đại hội kết thúc nhiệm vụ lịch sử của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 2/1951). Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản toàn Campuchia đã quyết định thành lập Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia vào tháng 7/1951.
Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, Đảng Lao động Việt Nam thành lập Ban tiếp vận Trung ương để hỗ trợ các chiến trường ở Nam Đông Dương. Ban tiếp vận này đã tiếp nhận vận chuyển hàng hóa từ Bangkok (Thái Lan) qua Campuchia đến các quân khu ở Nam Trung bộ và Liên khu 5. Đồng thời, họ đã chi viện cho cách mạng Campuchia. Từ năm 1954 – 1975, ba nước Việt Nam – Campuchia – Lào đã phối hợp chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Xứ ủy Nam bộ, sau đó là Trung ương Cục miền Nam, đã xây dựng nhiều địa bàn chi viện ở Campuchia trên khu vực biên giới Việt Nam – Campuchia và các tỉnh Đông Bắc Campuchia giáp Việt Nam. Từ năm 1959 – 1970, Campuchia đã cho phép hàng hóa chi viện từ miền Bắc vào miền Nam qua cảng Xihanucvin và từ cảng này lên miền Đông Nam bộ. Từ sau sự kiện đảo chính tháng 3/1970 đến tháng 4/1975, nhân dân Campuchia đã phối hợp với Việt Nam kháng chiến chống lại Mỹ và tay sai. Đặc biệt, từ Hội nghị cấp cao nhân dân ba nước Đông Dương tháng 4/1970 trở đi, lực lượng kháng chiến Campuchia càng phát triển mạnh mẽ và đánh bại các kế hoạch chiến tranh của Mỹ và tay sai.