Đền Tranh và Đền Thính là hai ngôi đền được nhiều người thường xuyên lui tới nhờ sự linh thiêng của nó, hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về hai ngôi đền này nhé
Mục lục bài viết
1. Đức Thánh Tản Viên là ai?
Thánh Tản Viên còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Vua Cha Nhạc Phủ, Tản Viên Sơn Thánh hay gần gũi nhất là thần Sơn Tinh. Ông là một trong bốn vị thánh bất tử của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, ông cũng được coi là đệ nhất phúc thần của Việt Nam, đệ nhất trong tứ bất tử.
Ngài thuộc Tứ Phủ Vạn Linh ở bậc Vua Cha cùng với Vua Cha Thiên Phủ (Vua Cha Thiên Phủ), Vua Cha Thủy Phủ (Vua Cha Bát Hải Động Đình), Vua Cha Địa Phủ.
Ngoài ra, ông còn được biết đến là cha của Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn hay La Bình công chúa. Điều này được đề cập rất rõ trong sự tích Mẫu Thượng Ngàn.
Theo truyền thuyết, ông là người cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên). Ông ấy là thiêng liêng, ông ấy được hoàn thành vô hạn. Ghi chép trong Sự tích núi Tản Viên, tác giả Lĩnh Nam Chích Quái có viết: “Linh khí không thể lường được, tương truyền rằng thần rất linh thiêng và ứng nghiệm”.
Về nguồn gốc của Thánh Tản Viên, có nhiều nguồn giải thích về nguồn gốc dòng họ của Ngài.
Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo đó, ông là một trong năm mươi người con được chia xuống biển. Sau đó đi vòng qua cửa Thần Phù rồi ngược ra sông Hồng. Thấy núi Tản Viên sừng sững, ba hòn đảo sắp dựng đứng. Lại thêm dân quanh vùng chất phác, tốt bụng nên ông vẽ một đường thẳng tắp như hướng từ thôn Bạch Phiên Tần đi về phía nam núi Tản Viên, đến Uyển Đông, rồi đến Nhậm Tuyền, một nguồn khác, rồi ra đi. Về núi Thạch Bàn, hướng núi Vân Mộng mà ở. Những dấu chân ấy, sau này người ta xây chùa, hạn là đảo, lũ là cầu, bình chữa cháy chống hạn lớn nhanh hơn âm thanh truyền cảm vô cùng.
Tản Viên Sơn Thánh là ba anh em. Theo đó, nói đến Tản Viên Sơn Thánh có nghĩa là cả ba vị thần núi hay còn gọi là Tam Quốc Chí Chúa gồm Sơn Tinh, Cao Sơn và Quý Minh. Hiện nay, ba ngôi đền Thượng, Trung và Hạ ở Ba Vì đều thờ Tản Viên Sơn Thánh.
Tản Viên Sơn Thánh là người có thật. Theo tín ngưỡng dân gian ở các làng quê trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ), kết hợp với ngọc thạch đền Lăng Xương, Thánh Tản Viên là một người tên là Nguyễn Tuấn. Ông là con trưởng của ông Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Đen ở Sơn Tây, nay là Phú Thọ. Ông nhận Ma Thị Cao từ núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi. Từ đây, chàng trở thành vị cứu tinh của nhân dân với phép thuật biến hóa, võ công cao cường và trở thành thần núi Tản Viên. Sau này, khi Hùng Vương chọn rể cho con gái Ngọc Hoa, ông đã chọn Sơn Tinh – Nguyễn Tuấn.
2. Truyền thuyết gắn với Đức Thánh Tản Viên:
Công lao lớn nhất của Thánh Tản phải kể đến khi ông cùng Vua Cha Bát Hải Vinh Công Đại Vương phối hợp đánh đuổi giặc ngoại xâm khỏi lãnh thổ Văn Lang. Khi ấy, Vĩnh Công Đại Vương chặn giặc ngoài biển, Tản Viên Sơn Thánh chặn giặc trên đường bộ, chỉ trong 3 ngày đã đánh tan giặc.
Trong thời bình, ông đi khắp nơi dạy mọi người cách kiếm sống.
Ông đã dạy dân Ba Vì cách nhóm lửa bằng ống tre già, cách săn bắn bằng cách đào hầm và giăng lưới, dạy dân Quốc Oai gieo mạ, dạy dân ven sông Hồng. Cách làm lưới kéo, dạy dân võ đánh giặc giữ nước, dạy dân dệt vải, ca hát. Hiện nay, tại nhiều đền, chùa, người dân vẫn tổ chức lễ hội để noi gương cách làm ăn mà Sơn Tinh đã dạy dân, đồng thời để tỏ lòng thành kính với vị thánh đã giúp đời sống nhân dân ngày càng ấm no.
3. Đi lễ Đền Tranh và Đền Thính:
Hằng năm, cứ đến ngày đầu năm mới hay ngày lễ vía Đức Thánh Linh, người dân khắp nơi lại nô nức sắm sửa quần áo, đến cửa thánh và cúng dường. Phong tục thờ cúng đã được duy trì như một thói quen từ hàng nghìn năm nay. Đi chùa lễ bái vừa để tâm thanh tịnh, tĩnh tâm, vừa để cầu bình an, tốt lành cho gia đình,
Mâm cúng tiết Thanh minh bao gồm các lễ vật như: đĩa hoa, đĩa trái cây, đĩa trầu cau, rượu cút, xôi thịt, hương, giấy bạc và một cánh hoa.
Ngoài những nghi lễ trên, nếu bạn thành tâm muốn sắm sửa bàn thờ đẹp, sang trọng để bền lâu mà không bị hư hỏng, có thể kéo dài khoảng 6 tháng, được bài trí tỉ mỉ và trang trọng, rất thích hợp đặt trong không gian thờ cúng thì cần phải có sự lựa chọn kĩ lưỡng, tỉ mỉ.
4. Lịch sử Đền Tranh:
4.1. Tên gọi:
Đền Tranh là một trong những ngôi đền nổi tiếng ở Vĩnh Phúc. Ngôi đền được cho là đã được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4. Từ đó đến nay, ngôi chùa đã tồn tại và đồng hành cùng sự phát triển của đời sống người dân qua nhiều thập kỷ, trở thành một khối kiến trúc rất quen thuộc và phù hợp gắn bó mật thiết với đời sống của người dân địa phương.
Trong suốt chiều dài lịch sử, ngôi chùa đã dần xuống cấp và đã được nhân dân nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Có thể kể đến một số lần được tôn tạo như năm 1038 (thời Lý), 1469 và 1479 (thời Hậu Lê), 1538 (thời Mạc)… Trong thời kỳ này, chùa cũng được vinh danh với nhiều sắc phong quý giá từ các triều đại.
Đặc biệt, trong thời kỳ chống Mỹ, chùa là nơi trú ẩn của một số cơ quan Trung ương, nơi trú ẩn của cán bộ, chiến sĩ chống giặc. Hiện nay, tại chùa vẫn còn dấu vết của một đường hầm bí mật đang được xây dựng.
Năm 1993, đền Tranh chính thức được Nhà nước xếp hạng di tích quốc gia.
4.2. Kiến trúc:
Đền Tranh mang vẻ đẹp trang nghiêm, cổ kính. Ngôi chùa tọa lạc trên một khu đất cao cách biệt với xung quanh. Điều này góp phần tạo không khí thanh tịnh cho cảnh chùa linh thiêng. Phía sau chùa có thể phóng tầm mắt ra dãy núi Tam Đảo mây trắng bao phủ.
Đền được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh” gồm tòa tiền tế và hậu cung phía sau. Hai cung điện nhỏ liền kề với một ngôi đền khác. Chùa Tranh có sự kết hợp giữa thờ Phật và thờ Thánh.
Ngôi chùa được xây dựng khang trang với chiều dài gần 14m, rộng gần 7m, nền được lát bằng gạch men đỏ. Gian tế lễ tuy không lớn nhưng được xây dựng khang trang với 3 gian lợp ngói và hệ thống kèo gỗ sơn đỏ, móng én kiên cố. Đây là nơi đặt bàn thờ và các bàn thờ. Hai gian bên thờ các quan và quan đại thần.
Nối liền với tòa tiền đường là hậu cung. Hậu cung được ngăn cách với phòng thánh bằng hệ thống hai cửa hẹp và cửa võng bốn cánh sơn son màu nâu. Nội thất hậu cung được trang trí nổi bật với hai bức hoành phi, câu đối, câu đối, câu đối, rồng chầu được chạm trổ tỉ mỉ, trang trí hoa văn rồng phượng mạ vàng lấp lánh. Những kiến trúc chạm khắc này thuộc phong cách chạm khắc gỗ cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, cung cấp những tư liệu lịch sử nghệ thuật quý giá cho các nhà khoa học.
5. Lịch sử Đền Thính:
5.1. Tên gọi:
Đền Thính vốn không phải tên gọi ban đầu của ngôi đền mà được người dân đọc khác với chữ “thánh” để khỏi làm mất lòng dòng họ nên đổi thành Đền Thính. Ngoài ra, đền Thính còn gọi là đền Bắc Cung, là ngôi đền ở phía Bắc cùng với đền Đông Cung – Và Sơn Tây, Nam Cung Tản Lĩnh, Tây Cung Ba Vì.
Đền Thính được xây dựng từ lâu đời, gắn liền với đời sống tâm linh của người dân Vĩnh Phúc xưa. Đền ban đầu chỉ là một ngôi đền nhỏ được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu đến chiêm bái, thờ cúng Tản Viên Sơn của nhân dân quanh vùng. Về sau, đến đời vua Lý Thần Tông, chùa được xây dựng lại thành một ngôi chùa to lớn khang trang. Đến thời vua Minh Mạng, chùa được tu sửa nhiều lần. Thời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc bổ nhiệm nhà sư nghèo Thành Tài phụ trách tu sửa chùa. Việc sửa chữa kéo dài đến đời vua Khải Định thứ 6.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử với những năm tháng chiến tranh tàn khốc, ngôi đền vẫn được nhân dân tôn trọng và gìn giữ. Năm 1992, chùa được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa.
5.2. Kiến trúc:
Ngôi chùa tọa lạc trên khu đất rộng tới 10.000 m2 được bao quanh bởi những cây cổ thụ với tán lá xòe rộng như bàn tay khổng lồ ôm lấy mái chùa cổ kính, uy nghiêm.
Bước vào khu đền cổ rêu phong là khu đền chính được chia làm 3 gian với kết cấu tiền tế, trung tế và hậu cung. Các gian này được nối với nhau bằng hệ thống cửa gỗ chạm trổ công phu, sơn son thếp vàng với các họa tiết “long li quy phượng” hay “tùng cúc trúc mai” với những họa tiết vô cùng độc đáo.
Bàn thờ, tủ thờ là nơi người ta đặt lễ vật và thành tâm thờ cúng các vị thánh. Hậu cung thường là khu vực chỉ một số người nhất định mới được vào. Đây là nơi đặt bát hương thờ Đức Thánh Tản linh thiêng.
5.3. Lễ Hội Đền Thính:
Lễ hội đền Thính nhằm tưởng nhớ Đức Thánh Tản Viên, người đã có công giúp dân làm ăn, ổn định cuộc sống, đồng thời mang ý nghĩa cầu bình an, sức khỏe cho mọi người. và gió để được hài hòa. mùa màng bội thu, nhân dân no ấm.
Lễ hội được tổ chức hàng năm từ mùng 6 đến mùng 9 tháng Giêng âm lịch.
Phần lễ được nhân dân tổ chức long trọng theo nghi thức tổ tiên truyền lại với lễ rước kiệu từ các đình Phù Lưu, Man Đê, Tảo Phú, Lâm Xuyên, Nho Lâm về đình. Mỗi đình có đoàn rước riêng khiêng kiệu về đình.
Cùng với phần nghi lễ, người dân còn tổ chức các hoạt động vui chơi mang tính chất năng động, giải trí tạo không khí tưng bừng, náo nhiệt với các trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, kéo co… Đặc biệt, trong buổi sinh hoạt này còn có sự góp mặt của của Đoàn hợp xướng Quan họ Bắc Ninh với những giai điệu mượt mà, thiết tha.
6. Văn khấn Đức Thánh Tản Viên:
Nhạc Phủ Thánh Đế Văn
Động sơn trang thượng ngàn thánh phủ
Đức Tản Viên đấng chủ sơn lâm
Nổi cơn gió cuốn ầm ầm
Di sơn đảo hải cứu dân thoát nàn
Cõi Nam bang nhờ ơn đại thánh
Đất Sơn Tây, Tản Lĩnh ngất cao
Đôi bên tả hữu bộ tào
Tam thập lục động ra vào quản cai
Chốn sơn lâm muôn loài cầm thú
Nhờ thánh ân Nhạc Phủ thần vương
Lại thêm bát bộ sơn trang
Dời non chuyển núi phép càng thần thông
Nay ngưỡng trông thánh vương soi xét
Độ thanh đồng khắp hết gần xa
Độ cho khang thái cửa nhà
Cây tài nhánh lộc nở hoa bốn mùa
Khắp thôn bản gió mưa hòa thuận
Cõi lâm sơn ngàn mận ngàn mơ
Đỉnh non gió thổi phất phơ
Suối reo thác đổ tiếng tơ chạnh lòng
Chúng đệ tử một lòng thành kính
Tiến văn trình thỉnh thánh giáng lâm
Chữ rằng thánh giáng lưu ân
Sơn trang lưu lộc thiên xuân thọ trường.