Bài thơ Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện sự tinh tế và sâu sắc trong việc gửi gắm thông điệp về thái độ sống. Bài thơ Ánh trăng muốn nhắc nhở chúng ta điều gì về thái độ sống? Bạn đọc hãy cùng có thời gian tìm hiểu qua những sự kiện của câu chuyện thông qua bài thơ này.
Mục lục bài viết
1. Bài thơ Ánh trăng muốn nhắc nhở chúng ta điều gì về thái độ sống?
Bài thơ Ánh trăng của nhà thơ Nguyễn Duy là một tác phẩm xuất sắc, thể hiện sự tinh tế và sâu sắc trong việc gửi gắm thông điệp về thái độ sống.
Ánh trăng là hình tượng thiên nhiên, một vẻ đẹp bình dị và hiền hậu của quê hương. Tuy nhiên, qua bài thơ, tác giả muốn nhắc nhở chúng ta về những điều quan trọng:
– Uống nước nhớ nguồn: Cuộc sống yên vui dễ khiến con người ta quên đi những năm tháng gian khổ, quên đi những miếng cơm, manh áo đã giúp đỡ ta trong những ngày đói rét chiến tranh. Ánh trăng như một lời nhắn nhủ, chúng ta không nên quên nguồn cội, không nên quên những người đã đồng hành và giúp đỡ ta.
– Ăn quả nhớ kẻ trồng cây: Tương tự, Ánh trăng còn nhắc nhở về tình nghĩa son sắt thủy chung của quá khứ. Dù người ta có quên, trăng vẫn nhớ, trăng vẫn ở đó, không bao giờ quên. Đây là một nhan đề thấm đẫm giá trị nhân văn và hướng về nguồn cội.
2. Mẫu bài nghị luận siêu hay về thái độ sống được gửi gắm qua Ánh trăng:
“Ánh trăng” là tác phẩm được sáng tác trong thời đại văn học Việt Nam sau năm 1975, khi đang chuyển mình từ thời chiến tranh ác liệt sang cuộc sống thường nhật với nhiệm vụ phát triển và xây dựng lại đất nước.
Ra đời trong hoàn cảnh như vậy, “Ánh trăng” cũng như nhiều bài thơ cùng thời, tập trung sâu sắc vào miêu tả tâm lý, thái độ sống của con người sau chiến tranh và lập lại hòa bình.
Tác giả Nguyễn Duy sáng tác bài thơ như một câu chuyện được kể theo trình tự thời gian, bắt đầu từ lúc “hồi nhỏ sống với đồng” đến “hồi chiến tranh ở rừng” và kết thúc là khi “về thành phố”. Hình ảnh ánh trăng hiện lên qua ba dấu mốc thời gian ấy cũng đi theo dòng tự sự mà nhà thơ xây dựng. Khi còn nhỏ, trên chiến trường, trăng là “bạn”, “là tri kỷ”, nhưng khi về thành phố, trăng lại như “người dưng qua đường”.
Điểm nghệ thuật độc đáo được nhà thơ xây dựng nằm ở mỗi khổ thơ ông sáng tác. Ở đầu mỗi khổ thơ, chỉ có chữ cái đầu dòng được viết hoa, tạo nên một câu dài hoàn chỉnh, đây cũng là một sự đổi mới mới trong thơ ca. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Duy chỉ sử dụng một dấu chấm ở cuối tác phẩm để tạo nên sự liên tục về cảm xúc xuyên suốt trong bài thơ, không cho phép cắt đứt dòng tư tưởng. Trong vòng cảm xúc đó, một sự việc bất thường xảy ra “thình lình đèn điện tắt”, tạo nên bước ngoặt để từ đó nhà thơ Nguyễn Duy bộc lộ rõ ràng những suy nghĩ, chủ đề của tác phẩm. Với ngòi bút kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố tự sự và trữ tình, “Ánh trăng” không chỉ quen thuộc với nhiều độc giả như một bài thơ mà còn đóng vai trò là một câu chuyện nhỏ với cách kể chuyện chân thành.
Trước hết, ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ khắc họa hình ảnh vầng trăng giữa không gian mênh mông của cánh đồng, núi rừng và sông biển, nơi con người “hồn nhiên như cây cỏ”. Nhớ trăng là nhớ cõi bao la “có ruộng, có sông, có hồ”. Bằng cách gieo vần và lặp lại ba lần chữ “cùng nhau”, nhà thơ Nguyễn Duy gợi lên cho độc giả một tuổi thơ đầy kỷ niệm đẹp. Đó là những lúc rảnh rỗi để vui chơi, giao lưu “trần trụi” với thiên nhiên, và cho đến khi trở thành người lính, vầng trăng và con người vẫn gắn bó với nhau như những người bạn “tâm hồn”.
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”
Nhớ đến trăng là nhớ về không gian bao la “với đồng với sông rồi với bể”. Bởi việc gieo vần lưng và lặp lại ba lần chữ “với”, nhà thơ Nguyễn Duy gợi lên trước mắt độc giả về một tuổi thơ đầy ắp những kỷ niệm tươi đẹp. Đó là những lúc được thỏa thích vui chơi, hòa mình một cách “trần trụi” với thiên nhiên và cho đến khi trở thành người lính, mặt trăng và con người vẫn gắn bó với nhau như những người bạn “tri kỷ”.
“Hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ.”
Khi ấy, hồi “chiến tranh ở rừng”, vầng trăng xinh đẹp, đằm thắm như một người bạn tri kỷ, gắn liền với nhiều kỷ niệm tuổi thơ và những năm tháng chiến đấu, hành quân trên chiến trường Nam Bộ rực lửa. Trong không gian đêm tối của núi rừng, vầng trăng không chỉ là ngọn đèn soi đường mà còn là người bạn đồng hành vui vẻ, là nơi mà các chiến sĩ có thể bày tỏ những tâm tư thầm kín của mình. Thời đó, con người sống hòa hợp với thiên nhiên trong lành.
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.”
Trần trụi và hồn nhiên là một vẻ đẹp giản dị, nhẹ nhàng đến không ngờ. Hình ảnh so sánh “hồn nhiên như cây cỏ” càng nhấn mạnh vẻ đẹp tự nhiên của vầng trăng yêu thương. Nhà thơ Nguyễn Duy đã nhân cách hóa vầng trăng như chỗ dựa tinh thần của mình, là người bạn thân thiết, tri kỷ không bao giờ có thể quên. Câu thơ “Ngỡ không bao giờ quên/Cái vầng trăng tình nghĩa” như một bản khế ước thiêng liêng giữa con người và vầng trăng. Chữ “nghĩa tình” làm thay đổi ranh giới giữa con người và vầng trăng tưởng như mãi mãi bền vững. Tuy nhiên, giữa những hồi ức tươi đẹp, tác giả chợt gặp phải những vấn đề vướng bận mơ hồ, đánh dấu bước ngoặt của câu chuyện. Từ “ngỡ” xuất hiện như điểm tiếp xúc tinh tế giữa hai mạch cảm xúc.
Khép lại mối quan hệ thân thiết giữa con người với vầng trăng khi xưa, nhà thơ Nguyễn Duy đưa người đọc đến với hiện thực khi sự gần gũi này phai nhạt theo năm tháng cùng với những thay đổi trong lòng người.
“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.”
Vẫn là vầng trăng xưa nhưng con người đã thay đổi, họ đã quen với ánh sáng nhân tạo mà quên đi sự tồn tại của vầng trăng. Đó là một sự thay đổi thực sự tàn nhẫn khi mọi người xem vầng trăng hoàn toàn xa lạ. Những người lính xưa rời khỏi chiến tranh và trở về cuộc sống hòa bình với nhiều biến chuyển. Họ không còn có những ngày đồng hành cùng vầng trăng, không đối mặt với kẻ thù mà giờ đây họ chỉ có “ánh điện, cửa gương” hiện đại. Trong cuộc sống sung túc này, người lính vô tình quên mất ánh trăng và vô ơn đối với tình nghĩa sâu nặng một thời. Trăng vẫn đi theo người, nhưng thật buồn khi người ta coi trăng như “người dưng qua đường ”.
“Vầng trăng đi qua ngõ
như người qua đường.”
Sự tương phản giữa ánh trăng với tấm lòng thủy chung và việc con người xem trang thấy được sự tiếc nuối, đau xót trước sự thật phũ phàng ấy. Người ta quên đi quá khứ và vô ơn đối với ân tình một thuở chưa xa. Những câu thơ của Nguyễn Duy nhú chứa đựng sự trăn trở, day dứt trước nhân tình, thế thái thời hậu chiến.
Tưởng chừng như vầng trăng sẽ bị nhấn chìm mãi mãi, mối quan hệ giữa con người và mặt trăng cứ trở nên mờ nhạt khi cuộc sống sôi động phát triển, nhưng bỗng nhiên một tình huống bất ngờ xảy ra khiến trong lòng thi nhân sống dậy bao suy nghĩ.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.”
Trong khi ở những khổ thơ trước giọng thơ chậm rãi, nhịp nhàng theo dòng ký ức thì ở khổ thơ thứ tư giọng thơ đột ngột thay đổi, như thể tỏ sự ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng sau cửa sổ. Khi “thình lình đèn điện tắt”, con người “vội vàng bật tung cửa sổ” đi tìm nguồn sáng mới thì vô tình gặp lại “vầng trăng” tình nghĩa thuở nào. Nhà thơ Nguyễn Duy đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ bằng cách đẩy từ “đột ngột” vào đầu câu thơ để nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, bàng hoàng của con người khi bắt gặp vầng trăng ngày xưa. Một vầng trăng tròn đầy yêu thương luôn soi sáng, dõi theo con người, nhưng con người vì đã “quen ánh điện, cửa gương” mà quên mất ánh trăng. Có lẽ vì thế mà tác giả có cảm giác “đột ngột” khi “vầng trăng tròn” xuất hiện. Chỉ khi đèn điện tắt đi người ta mới nhìn thấy và nhận ra vầng trăng năm đó. Đột nhiên, bất ngờ, sự xuất hiện của vầng trăng đã đánh thức biết bao cảm xúc trong tâm trí người thi sĩ.
Cái độc đáo của nhà thơ Nguyễn Duy chính là phép nhân hóa tài tình khiến cho trăng và người thấy trăng đàm tâm trong im lặng. Trong cuộc gặp gỡ không lời này, người lính xưa đã xúc động “rưng rưng”.
“Ngửa mặt nhìn lên trời
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.”
Dòng cảm xúc của bài thơ trở nên nghẹn ngào, bồn chồn như muốn trào nước mắt. Khoảnh khắc “ngửa mặt nhìn lên trời” là sự kiện bất ngờ khi con người gặp lại “cố nhân”, tri kỷ một thời của mình. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng không chỉ gợi lên trong tâm trí nhà thơ những hình ảnh thiên nhiên quê hương “như là đồng là bể/như là sông là rừng” mà còn gợi lên biết bao kỷ niệm tuổi thơ.
Mọi hình tượng của bài thơ đều được tái hiện rõ nét qua những cảm xúc nồng nàn và sự im lặng đầy thành kính của nhà thơ Nguyễn Duy. Trong giây phút thiêng liêng đó, dường như ông đã hiểu ra một chân lý.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
Từ láy “vành vạnh” mô tả rõ ràng hình ảnh một vầng trăng hoàn hảo, không một chút khiếm khuyết. Trăng tròn là ẩn dụ cho một quá khứ đầy nghĩa tình, yêu thương và ấm áp. Phụ từ “cứ” thể hiện tính liên tục, qua đó nhà thơ nhấn mạnh tấm lòng chung thủy, bất chấp hoàn cảnh, thời gian, bất chấp những đổi thay của lòng người của vầng trăng tình nghĩa. Vầng trăng bao dung và độ lượng, “kể chi người vô tình”. Lời thơ giản dị như lời nói đời thường nhưng chứa đựng sức nặng, không trách móc thái độ bạc bẽo của người đời. Thủ pháp nhân cách hóa và sử dụng từ láy “phăng phắc” được sử dụng trong lời thơ “Ánh trăng im phăng phắc”, nhà thơ miêu tả sự im lặng lạ thường của vầng trăng. Sự im lặng không thể hiện ở sự bất lực hay thờ ơ mà là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh nghiêm khắc con người về lẽ sống ân nghĩa, thủy chung ở đời.
Đối diện với vầng trăng, người lính phải “giật mình”. Giật mình là phản xạ tự nhiên khi con người chợt nhận ra sự vô ơn, thờ ơ của mình, khi “quay lưng” với trăng và quá khứ tình nghĩa. Nó còn thể hiện thái độ tiếc nuối, ý thức của con người về nhịp sống hiện đại bận rộn, dễ quên lãng đi những tình cũ và đánh mất chính mình. Khoảnh khắc bất ngờ này đã kéo con người thoát khỏi nhịp sống hối hả và đưa họ trở về với những giá trị đích thực trường tồn trước thử thách của thời gian. Đó là sự thức tỉnh nhân bản mà nhà thơ muốn truyền tải.
Khi viết bài thơ, nhà thơ Nguyễn Duy đã rất ngạc nhiên và lo lắng trước sự thay đổi nhanh chóng của con người sau khi kết thúc chiến tranh ác liệt và đất nước bước vào thời kỳ phát triển, đổi mới. Trở về với cuộc sống hòa bình, nhiều người vô tình quên đi quá khứ hào hùng của dân tộc mà chỉ tập trung xây dựng quê hương trên con đường hiện đại hóa. Thế nhưng, trong bài thơ “Ánh trăng”, nhà thơ đã không hề mất niềm tin vào nhân cách của con người. Nhà thơ vẫn luôn mong rằng trong cuộc sống bận rộn, lo toan, sẽ có những lúc con người dừng lại và nhìn về quá khứ. Nghỉ ngơi và tìm lại điều gì đó đã mất trong quá khứ hay khoảnh khắc “giật mình” như vậy thực sự rất nâng niu và đáng trân trọng. Đó là lời nhắc nhở của nhà thơ cho thế hệ mai sau về một lối sống yêu thương, chung thủy.
Bài thơ không phải là câu chuyện cá nhân của nghệ sĩ Nguyễn Duy hay của một người lính trở về sau chiến tranh, mà còn là những lời tâm sự, khuyên bảo của những người đã từng trực tiếp chứng kiến dân tộc Việt Nam vươn lên từ những năm tháng gian khổ.
3. Mẫu bài nghị luận ấn tượng về thái độ sống được gửi gắm qua Ánh trăng:
Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ lớn lên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bài thơ “Ánh trăng” được sáng tác vào năm 1978. Bài thơ là giây phút đối mặt với một quá khứ đầy tình nghĩa để chất vấn lương tâm của mình; và cũng từ đó nhắc nhở mọi người về thái độ sống “Uống nước nhớ nguồn”. Trong đó, khổ thơ 4 và 6 chứa đựng chủ đề và cảm xúc của toàn bộ bài thơ. Đây là hai khổ thơ có sức mạnh ám ảnh trong lòng người đọc.
Toàn bộ bài thơ là sự kết hợp giữa hình thức tự sự và chiều sâu cảm xúc. Theo dòng chảy của thời gian, các sự kiện ở khổ 1, 2, 3 diễn ra lặng lẽ nhưng ở khổ thơ 4, một sự kiện “đột ngột” xuất hiện, tạo bước ngoặt để nhà thơ bày tỏ tình cảm, thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm. Dường như vầng trăng không chỉ soi sáng cho không gian hiện tại mà còn soi sáng cả những kỷ niệm không thể nào quên trong quá khứ. Cái “giật mình” ở khổ thơ 6 chính là lời nhắc nhở chung thủy.
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Trăng là hình ảnh thiên nhiên hồn nhiên tươi mát, là người bạn tâm giao thuở ấu thơ và khi chiến tranh ở rừng, dường như sẽ không bao giờ có thể quên được vầng trăng thân thương này. Tuy nhiên, khi hoàn cảnh thay đổi, mọi thứ đã trở nên chao đảo. Người ta vô tình quên đi những người bạn thân thiết, quên đi tình nghĩa năm xưa.
“Thình lình”, “tắt”, “vội”, “đột ngột” ‘ những từ mang tính chất đột ngột được đặt giọng thơ tràn đầy cảm giác bất ngờ, ngỡ ngàng. Cảm giác bất ngờ này là sự thức tỉnh của tác giả, bởi bản thân đã thờ ơ với vầng trăng nghĩa tình (như người dưng qua đường). Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng thực này đã đánh thức vầng trăng bị lãng quên, chính là quá khứ nghĩa tình yêu mà đã bị “ánh điện”, “cửa gương” xóa nhòa đi. Trăng không chỉ là biểu tượng của quá khứ nghĩa tình mà còn là vẻ đẹp giản dĩ, vĩnh hằng, như là nhánh chứng để nhắc nhở con người.
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.
Sự lặng im “phăng phắc” này là lời nhắc nhở nghiêm khắc về lòng chung thủy. Người ta phải giật mình vì trong suốt thời bình của thành phố, khi được sống đầy đủ tiện nghi (ánh điện, cửa gương), đã có lúc họ đã quên mất đi không những khó khăn và nghĩa tình thuở nào.
Cuộc gặp gỡ tình cờ với trăng chỉ khi ánh đèn điện tắt đi đã gợi lên biết bao kỉ niệm mới khiến cho người ta nhận ra sự vô tình của mình. Vầng trăng tròn là hình ảnh ẩn dụ sâu sắc tượng trưng cho quá khứ của nghĩa tình yêu vẹn nguyên, không thay đổi. Có thể nói đây là khổ thơ dẫn dắt người đọc đến với những suy ngẫm của nhân vật trữ tình về người bạn tri kỷ năm xưa (Ánh trăng).
Bài thơ như một câu chuyện, có sự kết hợp hài hòa tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Nhịp điệu của bài thơ đôi khi trôi chảy một cách tự nhiên, nhịp nhàng theo câu chuyện, đôi khi lại ngân nga đầy cảm xúc, đôi khi lại trầm lắng, biểu hiện những suy nghĩ. Cấu trúc, giọng điệu của bài thơ nhấn mạnh chủ đề, tạo sự chân thực, chân thành cùng sức truyền cảm sâu sắc, để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
Mọi người đều có một quá khứ. Có quê hương, có người thân, có bạn bè… tất cả những người đã từng gắn bó với chúng ta bằng tình yêu thương và ân nghĩa sâu nặng. Vì vậy, chúng ta cần phải biết trân trọng quá khứ, biết cài hoa vào quá khứ và biết nhìn về tương lai để tiếp tục hành trình hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chính điều này thể hiện thái độ sống “uống nước nhớ nguồn” của mỗi người.
Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân tình thủy chung cùng quá khứ.
THAM KHẢO THÊM: