Huyện Nậm Pồ là một huyện biên giới của tỉnh Điện Biên, Việt Nam, được thành lập vào năm 2012 từ việc điều chỉnh địa giới hành chính của hai huyện Mường Nhé và Mường Chà. Xin mời các bạn học cùng theo dõi bài viết dưới đây với chủ đề Bản đồ và các xã phường thuộc huyện Nậm Pồ (Điện Biên) để có những hiểu biết chung về huyện.
Mục lục bài viết
1. Bản đồ hành chính huyện Nậm Pồ (Điện Biên):
2. Huyện Nậm Pồ (Điện Biên) có bao nhiêu xã, phường?
Huyện Nậm Pồ có tất cả 15 xã.
STT | Danh sách xã, phường thuộc huyện Nậm Pồ (Điện Biên) |
1 | Nà Hỳ (huyện lỵ) |
2 | Chà Cang |
3 | Chà Nưa |
4 | Chà Tở |
5 | Nà Bủng |
6 | Na Cô Sa |
7 | Nà Khoa |
8 | Nậm Chua |
9 | Nậm Khăn |
10 | Nậm Nhừ |
11 | Nậm Tin |
12 | Pa Tần |
13 | Phìn Hồ |
14 | Si Pa Phìn |
15 | Vàng Đán |
3. Giới thiệu khái quát về huyện Nậm Pồ (Điện Biên):
Nậm Pồ là một huyện miền núi biên giới, nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ khoảng 140 km, có diện tích tự nhiên là 149.559,12 ha, có đường biên giới quốc gia dài 119,7 km, có 2 cửa khẩu phụ.
Huyện được thành lập theo Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 25/8/2012 của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập đơn vị hành chính cấp xã, cấp huyện thuộc tỉnh Điện Biên. Địa giới hành chính như sau:
Điều kiện tự nhiên:
-
Phía Đông giáp huyện Mường Chà.
-
Phía Tây giáp huyện Mường Nhé và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
-
Phía Nam giáp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
-
Phía Bắc giáp huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.
Địa hình:
Nậm Pồ có địa hình địa hình đồi núi cao chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông, độ cao từ 200m đến 1800m. Xen kẽ giữa các dãy núi có các dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi, mô sụt võng,… phân bố rộng khắp trên địa bàn nhưng điện tích nhỏ, hẹp có điều kiện giữ nước và tưới nước trên hầu hết diện tích đất đã được khai thác trồng lúa và hoa màu.
Khí hậu:
Nậm Pồ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa khô (mùa đông) và mùa mưa (mùa hè). Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, có gió mùa đông lạnh khô, chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng (gió Lào), ít mưa, chịu nhiều sương muối và rét hại gây bất lợi cho đời sống và sản xuất nông nghiệp.
Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mưa nhiều với đặc tính diễn biến bất thường, phân hóa đa dạng, ít chịu ảnh hưởng của bão nhưng chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam chứa một lượng ẩm lớn kèm theo các nhiễu động khí quyển mạnh và thường xuyên đã tạo ra các cơn mưa dông, mưa rào kéo dài 2 đến 3 ngày, thường xuất hiện dông, mưa đá. Độ ẩm tương đối trung bình từ 78-93%. Có lượng mưa lớn, bình quân từ 1.800-2.500 mm/năm, mưa tập trung từ tháng 6 đến tháng 9.
Thủy văn:
Hệ thống thủy văn của huyện thuộc phụ lưu vực Sông Đà, có hệ thống khe, suối chằng chịt độ dốc cao, lưu vực ngắn đổ chủ yếu vào bốn dòng suối chính là: Suối Nậm Pồ, suối Nậm Chà, suối Nậm Chim, Nậm Bai. Đây là nguồn nước mặt cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất của người dân trong huyện, cũng là tiền năng phát triển thủy điện nhỏ.
Tài nguyên nước:
Nguồn nước mặt của huyện chủ yếu được cung cấp bởi hệ thống sông Suối Nậm Pồ, suối Nậm Chà, suối Nậm Chim, Nậm Bai, Nậm He và nhiều hệ thống các khe suối nhỏ nằm ở các khe núi, ao, hồ khác. Do nằm trên địa hình phức tạp, chia cắt mạnh và có độ dốc lớn nên việc khai thác và sử dụng nguồn nước mặt cũng có nhiều hạn chế. Chất lượng nguồn nước khá tốt, là nguồn cung cấp nước chủ yếu cho sinh hoạt và sản xuất của người dân trong huyện. Hiện chưa có tài liệu cụ thể nghiên cứu về trữ lượng nước ngầm nhưng qua khảo sát sơ bộ tại một số giếng nước trong khu vực có rừng cho thấy mực nước ngầm nằm ở độ sâu 6 – 10m, có thể khai thác dùng trong sinh hoạt cho nhân dân.
Nhìn chung, tài nguyên nước của huyện khá dồi dào, khá thuận lợi cho đầu tư khai thác thủy điện nhưng do địa hình dốc, diện tích đồi núi trọc khá nhiều nên việc khai thác phục vụ sinh hoạt và sản xuất khó khăn.
Tài nguyên đất:
Trải qua quá trình Feralit, bào mòn, rửa trôi, bồi tụ, hình thành mùn, trên địa bàn huyện Nậm Pồ có các loại đất sau:
-
Đất mùn đỏ vàng trên đất đá biến chất, loại đá mẹ Firit (Hs).
-
Đất đỏ vàng trên đá biến chất (Fs).
-
Đất đỏ mùn trên đá sét (Hs).
-
Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa (Fl).
-
Đất thung lũng dốc tụ trồng lúa (DI).
-
Đất phù sa, sông suối (Py).
-
Đất mòn, trơ sỏi đá.
Tài nguyên rừng:
Là một huyện có tài nguyên rừng và thảm thực vật khá phong phú, đa dạng chủng loại cây được phân bố đều trên địa bàn 15/15 xã, hiện còn tồn tại một số loài cây quý hiếm nằm trong sách đỏ như: Pơ mu, Sa Mu và nhiều loại quý hiếm có giá trị kinh tế cao cũng như trong nghiên cứu khoa học gồm: Giổi, sấu, trám, muồng hoa vàng nhưng hiện nay số lượng không đáng kể. Các cây rừng nhân tạo chủ yếu là: Keo, tre.
Nậm Pồ có tài nguyên rừng rất lớn, chưa tính diện tích đất đồi núi chưa sử dụng có khả năng sử dụng vào mục đích lâm nghiệp và diện tích rừng phát triển sau nương rẫy thì huyện hiện có khoảng 60.000 ha đất có rừng tự nhiên chiếm khoảng 40% tổng diện tích tự nhiên của huyện.
Đất lâm nghiệp chưa có rừng (theo quy hoạch 3 loại rừng) trên địa bàn huyện có khoảng 52.000 ha, tập trung chủ yếu ở các xã Si Pa Phìn khoảng 8.000 ha, Phìn Hồ khoảng 5.000 ha, Pa Tần khoảng 5.000 ha, Vàng Đán khoảng 3.400 ha,…
Tài nguyên khoáng sản:
Nậm Pồ chưa có nghiên cứu đánh giá về tài nguyên khoáng sản trên địa bàn, theo khảo sát sơ bộ tài nguyên khoáng sản trên địa bàn huyện chỉ có khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường như: Đá kết xây dựng thông thường tuy nhiên trữ lượng nhỏ, phân bố không tập trung.
Hiện có các điểm mỏ đá đã được cấp phép khai thác gồm mỏ đá Pa Tần xã Pa Tần của Công ty TNHH Trường Thọ Điện Biên, mỏ đá Huổi Nhạt 2, xã Chà Nưa của công ty cổ phần đầu tư xây dựng và thương mại Huy Hoàng. Còn một số điểm mỏ đá chưa khai thác gồm: Huổi Sang xã Nà Hỳ, Nà Cang xã Chà Nưa, Km 51, Km 53 bản Pa Tần xã Pa Tần, Phi Lĩnh xã Si Pa Phìn, Nà Khoa xã Nà Khoa, Nậm Chim xã Si Pa Phìn, Nà Hỳ 1 xã Nà Hỳ,…
Trữ lượng cát sỏi trên các suối của huyện ít, không tập trung, chất lượng không cao do lẫn phù sa đất.
4. Hạ tầng giao thông huyện Nậm Pồ (Điện Biên):
Với việc xác định vai trò quan trọng của hệ thống giao thông trong phát triển kinh tế – xã hội, huyện Nậm Pồ đã tập trung nguồn lực để đầu tư xây mới, sửa chữa và nâng cấp hệ thống cầu và đường giao thông từ huyện đến các thôn, bản. Qua đó, góp phần làm cứng hóa hệ thống giao thông, đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân.
Hiện nay, toàn huyện có 694,081km đường, bao gồm 10km đường nhựa, 123,706km đường bê tông, 175,90km đường cấp phối và 384,475km đường đất. Tổng số cầu do huyện quản lý là 38 cái, trong đó có 26 cầu treo và 12 cầu cứng. Các dự án giao thông trọng điểm đã được triển khai như việc nâng cấp và mở mới 41,87km đường giao thông trong năm 2020, bao gồm cả đường bê tông từ bản Ðề Tinh đến bản Phìn Hồ dài 8,663km với tổng mức đầu tư 14,99 tỷ đồng. Sự cải thiện hạ tầng đã thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, tạo điều kiện cho người dân trong việc vận chuyển vật tư sản xuất nông nghiệp và nông sản, giúp họ có thể bán sản phẩm với giá cao hơn mà không bị tiểu thương ép giá. Đặc biệt, đường xá thuận lợi cũng đã góp phần nâng cao tỷ lệ chuyên cần của học sinh ở bậc học mầm non và tiểu học.
Có nhiều dự án giao thông trọng điểm được triển khai ở huyện Nậm Pồ nhằm cải thiện hệ thống giao thông và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Một trong những dự án đáng chú ý là dự án cầu và đường giao thông liên bản Vân Hồ – Long Dạo – Háng Dúng – Sân Bay tại xã Si Pa Phìn với tổng chiều dài khoảng 7,64km và tổng mức đầu tư lên đến 21,5 tỷ đồng. Dự án này có mục tiêu kết nối các vùng kinh tế trọng điểm trong huyện cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và nông sản, góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người dân.
Ngoài ra, huyện cũng đầu tư vào việc xây dựng và nâng cấp đường Trung tâm huyện – Nà Khoa với quy mô đường cấp 5, tổng chiều dài 7,05 km, bề rộng nền đường 6,5m, bề rộng mặt đường 3,5 m và kết cấu mặt đường đá dăm láng nhựa với tổng mức đầu tư là 40 tỷ đồng.
Sự đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng giao thông của huyện Nậm Pồ là minh chứng cho sự quan tâm của chính quyền địa phương đối với việc nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của người dân. Các dự án này không chỉ giúp cải thiện đường xá mà còn tạo ra nhu cầu giao thương, khơi thông huyết mạch kinh tế và kết nối các vùng kinh tế trọng điểm trên địa bàn.
THAM KHẢO THÊM: