Quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục thanh tra lại đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm sự công bằng, minh bạch và tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết các vấn đề pháp lý. Vậy pháp luật quy định như thế nào về thẩm quyền, thủ tục thanh tra lại?
Mục lục bài viết
1. Thẩm quyền, thủ tục thanh tra lại được quy định như thế nào?
Căn cứ vào Điều 18 Nghị định 43/2023/NĐ-CP, quy định về thẩm quyền thanh tra lại được xác định rõ ràng và cụ thể như sau:
-
Tổng Thanh tra Chính phủ có thẩm quyền quyết định thanh tra lại các vụ việc đã có kết luận của Thanh tra Bộ, cơ quan thanh tra của các cơ quan thuộc Chính phủ, và Thanh tra tỉnh khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Điều này nhằm đảm bảo rằng các kết luận thanh tra ở cấp bộ và tỉnh được kiểm tra lại để đảm bảo tính chính xác và tuân thủ pháp luật.
-
Chánh Thanh tra Bộ được trao thẩm quyền quyết định thanh tra lại các vụ việc đã có kết luận của Thanh tra Tổng cục, Thanh tra Cục và các cơ quan tương đương, hoặc của các cơ quan khác thuộc bộ được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Ngoài ra, Chánh Thanh tra Bộ cũng có thẩm quyền thanh tra lại các vụ việc đã có kết luận của Thanh tra sở thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Quy định này đảm bảo sự giám sát chặt chẽ đối với các kết luận thanh tra trong phạm vi bộ.
-
Chánh Thanh tra tỉnh có thẩm quyền quyết định thanh tra lại các vụ việc thanh tra hành chính đã có kết luận của Thanh tra sở, Thanh tra quận, huyện, thị xã, và thành phố thuộc tỉnh hoặc thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra huyện) khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Điều này nhằm tăng cường sự kiểm soát và đảm bảo tính chính xác của các kết luận thanh tra ở cấp sở và huyện.
Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên, có thể thấy rằng Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra Bộ, Chánh Thanh tra tỉnh, và Chánh Thanh tra sở đều có thẩm quyền thực hiện thanh tra lại các vụ việc khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Quy định này thiết lập một hệ thống kiểm tra và giám sát chặt chẽ, đảm bảo rằng các kết luận thanh tra ở mọi cấp độ đều được kiểm tra lại khi cần thiết, nhằm bảo vệ tính minh bạch và công bằng trong hoạt động thanh tra.
2. Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra:
Theo Điều 9 của Luật Thanh tra năm 2022, các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra được quy định chi tiết như sau:
-
Cơ quan thanh tra theo cấp hành chính:
+ Thanh tra Chính phủ: Đây là cơ quan thanh tra cấp cao nhất, chịu trách nhiệm giám sát và kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương.
+ Thanh tra tỉnh: Bao gồm các cơ quan thanh tra tại các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương. Những cơ quan này chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi tỉnh hoặc thành phố đó.
+ Thanh tra huyện: Bao gồm các cơ quan thanh tra tại quận, huyện, thị xã, và thành phố thuộc tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương. Các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi hành chính của mình.
+ Cơ quan thanh tra tại đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt: Được thành lập theo quy định của Quốc hội, các cơ quan này thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại các khu vực có tính chất đặc biệt về hành chính và kinh tế.
-
Cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực:
+ Thanh tra Bộ: Các cơ quan thanh tra trực thuộc các Bộ và cơ quan ngang Bộ, thực hiện nhiệm vụ thanh tra trong phạm vi ngành hoặc lĩnh vực mà Bộ đó quản lý.
+ Thanh tra Tổng cục, Cục: Bao gồm các cơ quan thanh tra trực thuộc các Tổng cục, Cục và các cơ quan tương đương trong các Bộ, chịu trách nhiệm thanh tra trong các lĩnh vực chuyên ngành cụ thể.
+ Thanh tra sở: Các cơ quan thanh tra thuộc các Sở, chịu trách nhiệm thanh tra trong phạm vi ngành hoặc lĩnh vực mà Sở đó quản lý.
-
Cơ quan thanh tra ở cơ quan thuộc Chính phủ: Các cơ quan thanh tra này được thành lập tại các cơ quan trực thuộc Chính phủ, chịu trách nhiệm thanh tra trong phạm vi hoạt động của cơ quan đó.
-
Cơ quan thanh tra trong các lĩnh vực đặc thù:
+ Quân đội nhân dân: Các cơ quan thanh tra trong Quân đội nhân dân thực hiện nhiệm vụ thanh tra các hoạt động liên quan đến quốc phòng và quân sự.
+ Công an nhân dân: Các cơ quan thanh tra trong Công an nhân dân thực hiện nhiệm vụ thanh tra các hoạt động liên quan đến an ninh và trật tự.
+ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Thực hiện nhiệm vụ thanh tra các hoạt động ngân hàng và tài chính.
+ Cơ quan cơ yếu Chính phủ: Thực hiện nhiệm vụ thanh tra các hoạt động liên quan đến bảo mật và cơ yếu.
-
Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành: Bao gồm các cơ quan không thuộc các loại hình trên nhưng được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, theo quy định trên, cơ quan thực hiện chức năng thanh tra bao gồm: Cơ quan thanh tra nhà nước (gồm Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh, Thanh tra sở, Thanh tra huyện) và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Quy định này đảm bảo rằng công tác thanh tra được thực hiện ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, cũng như trong các ngành và lĩnh vực đặc thù, góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước.
3. Việc thanh tra lại được thực hiện khi có những căn cứ nào?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Thanh tra năm 2022, việc thanh tra lại được thực hiện khi có một trong các căn cứ sau đây:
-
Vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục trong quá trình tiến hành thanh tra: Nếu trong quá trình thanh tra, các bước, quy trình hoặc thủ tục bị vi phạm nghiêm trọng thì có thể ảnh hưởng đến tính chính xác và công bằng của kết luận thanh tra.
-
Sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận thanh tra: Nếu có sai sót trong việc áp dụng các quy định pháp luật dẫn đến việc đưa ra kết luận thanh tra không chính xác thì cũng là căn cứ để tiến hành thanh tra lại.
-
Nội dung trong kết luận thanh tra không phù hợp với những chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra
-
Người tiến hành thanh tra cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ việc hoặc cố ý kết luận trái pháp luật: Trường hợp người tiến hành thanh tra cố ý thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo hoặc làm hỏng các tài liệu, chứng cứ của cuộc thanh tra hoặc cố ý đưa ra kết luận không đúng pháp luật thì đây cũng là căn cứ để thanh tra lại.
-
Có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của đối tượng thanh tra nhưng chưa được phát hiện đầy đủ qua thanh tra: Nếu sau khi thanh tra xong, phát hiện ra đối tượng thanh tra có các vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà chưa được làm rõ hoặc phát hiện đầy đủ trong quá trình thanh tra trước đó, việc thanh tra lại sẽ được thực hiện.
Ngoài ra, theo Điều 19 Nghị định 43/2023/NĐ-CP, các căn cứ để thanh tra lại được quy định rõ hơn như sau:
-
Vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục trong quá trình tiến hành thanh tra: Ví dụ như không xây dựng và gửi đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo, không thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra, không kiểm tra, xác minh thông tin, tài liệu, hoặc không có báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra.
-
Sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận thanh tra như áp dụng không đúng quy phạm pháp luật hoặc áp dụng văn bản pháp luật đã hết hiệu lực, dẫn đến sai lệch về nội dung của kết luận thanh tra.
-
Nội dung trong kết luận thanh tra không phù hợp với những chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra: Điều này dẫn đến việc đánh giá không đúng, tăng nặng, giảm nhẹ hoặc bỏ qua hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra, hoặc kiến nghị xử lý không phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm đã được phát hiện.
-
Người tiến hành thanh tra cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ việc: Hành vi này bao gồm việc thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy hoặc làm hư hỏng các thông tin, tài liệu, chứng cứ của cuộc thanh tra, hoặc sử dụng các thủ đoạn khác nhằm làm sai lệch nội dung hồ sơ vụ việc.
-
Cơ quan thanh tra cấp trên hoặc cơ quan có thẩm quyền khác phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra chưa được phát hiện đầy đủ qua thanh tra: Nếu cơ quan thanh tra cấp trên hoặc các cơ quan có thẩm quyền khác phát hiện ra các dấu hiệu vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra mà chưa được phát hiện đầy đủ qua cuộc thanh tra trước đó, việc thanh tra lại sẽ được thực hiện.
Như vậy, việc thanh tra lại được thực hiện khi có một trong các căn cứ sau: vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục trong quá trình thanh tra; sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận thanh tra; nội dung kết luận thanh tra không phù hợp với chứng cứ thu thập được; người tiến hành thanh tra cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ việc; và có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của đối tượng thanh tra chưa được phát hiện đầy đủ qua thanh tra.
THAM KHẢO THÊM: