Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ là hành vi lợi dụng tính cấp thiết và quyền hạn đặc thù trong hoạt động quân sự để thực hiện các hành vi vượt quá phạm vi cần thiết, gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Đây là hành vi nguy hiểm không chỉ xâm phạm trật tự, kỷ luật trong quân đội mà còn ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng vũ trang và quyền sở hữu tài sản của các chủ thể trong xã hội.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ:
- 2 2. Cấu thành Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 416 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh:
1. Khái quát về Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ:
1.1. Khái niệm:
”Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ là hành vi của người đang thực hiện nhiệm vụ quân sự nhưng đã vượt quá phạm vi cần thiết của yêu cầu quân sự, lợi dụng tính cấp thiết và đặc thù của hoạt động quân sự để gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Hành vi này mang tính chất lợi dụng thẩm quyền, điều kiện đặc biệt của hoạt động quân sự nhằm phục vụ lợi ích cá nhân hoặc thiếu ý thức kỷ luật, gây hậu quả vật chất rõ ràng.”
Tội danh này hiện nay đang được quy định tại Điều 416 Bộ luật Hình sự 2015 và thuộc nhóm tội xâm phạm đến trật tự, kỷ luật trong hoạt động quân sự và quyền sở hữu tài sản của các chủ thể trong xã hội. Cấu thành của tội phạm là cấu thành vật chất, do đó hậu quả thiệt hại tài sản là yếu tố bắt buộc để định tội.
1.2. Ý nghĩa:
Việc quy định tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ mang nhiều ý nghĩa quan trọng cả về pháp lý lẫn chính trị – xã hội.
- Thứ nhất: Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ góp phần bảo vệ tính chính danh, đúng đắn và kỷ luật nghiêm ngặt trong hoạt động quân sự, đặc biệt trong bối cảnh quốc phòng luôn đặt yêu cầu cao về tổ chức, hiệu quả và trách nhiệm. Hoạt động quân sự có tính chất đặc biệt, thường được trao quyền chủ động cao và vận hành trong điều kiện khẩn cấp; do đó việc lợi dụng các điều kiện này để mưu lợi cá nhân hoặc gây thiệt hại tài sản là hành vi nguy hiểm cần phải được ngăn chặn.
- Thứ hai: Quy định về Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ nhằm bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân, chống lại các hành vi tùy tiện, thiếu trách nhiệm hoặc cố ý gây thiệt hại trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quân sự. Đây cũng là sự cụ thể hóa nguyên tắc không ai được đứng trên pháp luật, kể cả trong điều kiện chiến tranh hay tình huống khẩn cấp.
- Thứ ba: Tội danh này còn có ý nghĩa trong giáo dục răn đe và nâng cao ý thức kỷ luật quân sự, góp phần giữ vững hình ảnh, uy tín và sự tin cậy của quân đội trong lòng nhân dân. Quân đội là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc vì thế mọi hành vi sai trái dưới danh nghĩa quân sự cần được xử lý nghiêm minh và đúng pháp luật để giữ gìn lòng tin của xã hội.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ hiện nay đang được quy định tại Điều 416 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
”1. Người nào trong khi thực hiện nhiệm vụ mà vượt quá phạm vi cần thiết của nhu cầu quân sự gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng của Nhà nước, của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội gây thiệt hại về tài sản 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.”
2. Cấu thành Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ:
2.1. Khách thể:
Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ xâm phạm đến: Tính đúng đắn, hợp pháp của hoạt động quân sự, uy tín, kỷ cương của lực lượng vũ trang, đồng thời gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân.
Như vậy, khách thể của tội phạm này bao gồm:
- Trật tự, kỷ luật và tính chính danh trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ quân sự;
- Uy tín của quân đội;
- Quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện qua hành vi lạm dụng nhu cầu quân sự vượt quá phạm vi cần thiết, gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân, với giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Hành vi “lạm dụng nhu cầu quân sự” được hiểu là hành vi lợi dụng tính cấp thiết, bắt buộc của nhiệm vụ quân sự để thực hiện các hành vi vượt quá giới hạn cần thiết mà nhiệm vụ đó đòi hỏi. Cụ thể, người phạm tội có thể cố ý huy động, sử dụng phương tiện, tài sản hoặc lực lượng nhiều hơn mức cần thiết hoặc thực hiện các hành vi phá hoại không đúng mức độ yêu cầu (như chỉ cần phá một phần nhà, công trình để mở đường cho xe quân sự đi qua nhưng lại phá hủy toàn bộ công trình…). Đây là sự tùy tiện, lợi dụng nhiệm vụ quân sự để gây ra thiệt hại không chính đáng về tài sản.
Tội phạm này có cấu thành vật chất. Do đó hậu quả thiệt hại về tài sản là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm. Cụ thể, hành vi phải gây ra hậu quả là thiệt hại nghiêm trọng về tài sản từ 500.000.000 đồng trở lên (theo khoản 2) hoặc từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng (theo khoản 1) và hậu quả này phải do chính hành vi vượt quá nhu cầu quân sự gây ra một cách trực tiếp.
Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm hậu quả thiệt hại về tài sản xảy ra và đạt ngưỡng định lượng do luật quy định. Ngược lại, nếu hậu quả xảy ra chưa đủ mức thiệt hại theo yêu cầu cấu thành tội phạm (dưới 100.000.000 đồng) thì hành vi tuy có dấu hiệu vi phạm nhưng chưa cấu thành tội phạm và người thực hiện sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ khi hành vi đó cấu thành tội phạm khác.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự năm 2015 mới có thể thực hiện tội phạm.
Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (từ đủ 16 tuổi trở lên).
2.4. Mặt chủ quan:
Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả do hành vi của mình gây ra, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
3. Khung hình phạt của Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ:
Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ theo Điều 416 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Tội danh này không quy định hình phạt bổ sung.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 416 Bộ luật Hình sự:
Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng duy nhất của tội danh này là: “Gây thiệt hại về tài sản 500 triệu đồng trở lên” theo khoản 2 Điều 416 Bộ luật Hình sự 2015.
Để bị xử lý ở khung hình phạt tăng nặng này cần đáp ứng 02 điều kiện:
- Vẫn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ liên quan đến nhu cầu quân sự, nhưng đã vượt quá phạm vi cần thiết;
- Thiệt hại tài sản phải từ 500 triệu đồng trở lên, bao gồm tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.
Theo đó, khoản 2 Điều 416 Bộ luật Hình sự 2015 quy định mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm đối với trường hợp người phạm tội gây thiệt hại tài sản từ 500 triệu đồng trở lên. Việc nâng cao hình phạt trong trường hợp thiệt hại tài sản lớn cho thấy sự phân hóa hợp lý giữa các mức độ nguy hiểm của hành vi.
So với khoản 1 Điều 416 chỉ xử lý hành vi gây thiệt hại từ 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng thì khoản 2 đã phản ánh rõ mức độ nghiêm trọng cao hơn, đồng thời tăng tính răn đe và phòng ngừa đối với những hành vi có thể gây hậu quả lớn cho Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân trong bối cảnh thực hiện nhiệm vụ quân sự.
5. Phân biệt với Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh:
Tiêu chí | Tội lạm dụng nhu cầu quân sự trong khi thực hiện nhiệm vụ (Điều 416 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội cố ý bỏ thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh (Điều 417 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khách thể | Trật tự, kỷ luật trong hoạt động quân sự; quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân | Quyền được bảo vệ sức khỏe, tính mạng của thương binh; danh dự, nhân phẩm của tử sĩ; kỷ luật quân đội |
Hành vi khách quan | Vượt quá phạm vi cần thiết của nhu cầu quân sự, gây thiệt hại tài sản | Cố ý bỏ rơi thương binh, tử sĩ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh khi có trách nhiệm |
Hậu quả bắt buộc | Gây thiệt hại về tài sản từ 100 triệu đồng trở lên | Gây hậu quả không tìm thấy thương binh, tử sĩ hoặc làm thương binh chết |
Chủ thể | Người đang thực hiện nhiệm vụ quân sự (có thể là quân nhân hoặc người được giao nhiệm vụ) | Người có trách nhiệm chăm sóc, cứu chữa hoặc xử lý thương binh, tử sĩ (thường là quân nhân, sĩ quan, chỉ huy) |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. |
Tính chất hành vi | Lợi dụng nhiệm vụ quân sự để gây thiệt hại tài sản | Bỏ mặc, không cứu giúp người bị thương, tử trận khi có nghĩa vụ giúp đỡ |
THAM KHẢO THÊM: