Trẻ em đóng vai trò vô cùng quan trọng, là nền tảng cho sự phát triển của đất nước, vì vậy cần phải được chăm sóc, giáo dục và quan tâm một cách cẩn thận nhất. Dưới đây là quy định của pháp luật về các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Mục lục bài viết
1. Quy định về các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em:
Pháp luật hiện nay đã có những quy định cụ thể về các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Căn cứ theo quy định tại Điều 55 của Văn bản hợp nhất Luật trẻ em năm 2018 có quy định về các hình thức cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Cụ thể như sau:
– Các cơ sở cung cấp dịch vụ trẻ em theo quy định của pháp luật là các cơ sở do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân thành lập phù hợp với quy định của pháp luật, cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em có chức năng và nhiệm vụ thực hiện, phối hợp và hỗ trợ thực hiện một hoặc một số biện pháp bảo vệ trẻ em trên thực tế, theo cấp độ phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp được quy định cụ thể tại Điều 48, Điều 49 và Điều 50 của Văn bản hợp nhất Luật trẻ em năm 2018;
– Các cơ sở cung cấp dịch vụ trẻ em được tổ chức theo loại hình cơ sở công lập hoặc được tổ chức theo loại hình cơ sở ngoài công lập;
– Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em sẽ bao gồm các cơ sở sau:
+ Cơ sở có chức năng và nhiệm vụ chuyên biệt thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em;
+ Cơ sở có một phần chức năng và nhiệm vụ thực hiện hoạt động cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 của Văn bản hợp nhất Luật trẻ em năm 2018 có quy định về điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Theo đó, cơ sở cung cấp dịch vụ trẻ em sẽ được thành lập và đăng ký hoạt động khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện sau đây:
– Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em có tôn chỉ phải có mục đích hoạt động phải xuất phát từ lợi ích tốt nhất của trẻ em;
– Có nội dung hoạt động nhằm mục đích thực hiện một hoặc nhiều biện pháp bảo vệ trẻ em theo quy định của pháp luật về trẻ em;
– Có người đại diện được xác định là công dân Việt Nam, người đó có đầy đủ năng lực hành vi dân sự phải có đạo đức phẩm chất tốt, có kiến thức và am hiểu về trẻ em và bảo vệ trẻ em, các đối tượng đó không bị chi cứu trách nhiệm hình sự theo bản án hoặc quyết định có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền, hoặc không bị xử lý vi phạm hành chính về các hành vi xâm hại trẻ em;
– Có cơ sở vật chất, có đầy đủ các trang thiết bị phải có đầy đủ nguồn tài chính, có nguồn nhân lực đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu và phạm vi hoạt động theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực trẻ em.
2. Hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em:
Căn cứ theo quy định tại Điều 58 của Văn bản hợp nhất luật trẻ em năm 2018 có quy định về hoạt động của các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Cụ thể như sau:
– Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em sẽ được hoạt động theo nội dung đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong quá trình hoạt động cần phải đảm bảo các yêu cầu như sau:
+ Cần phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu được quy định cụ thể tại Điều 47 của Văn bản hợp nhất Luật trẻ em năm 2018;
+ Tuân thủ đầy đủ quy trình và tiêu chuẩn trong quá trình cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành;
+ Thực hiện việc tiếp nhận, cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, chuyển giao cho em phù hợp với quy định của pháp luật, cần phải bảo đảm kết quả cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em giữa các cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em;
+ Chịu sự hướng dẫn, thanh tra và kiểm tra chuyên môn, kiểm tra nghiệp vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
+ Giữ bí mật về các thông tin liên quan đến trẻ em bị xâm hại, ngoại trừ các trường hợp cần phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
– Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em sẽ được tiếp nhận nguồn hỗ trợ tài chính, hiện vật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong xã hội, các cá nhân trong nước hoặc nước ngoài theo quy định của pháp luật, sử dụng nguồn kinh phí đó để thực hiện các biện pháp bảo vệ trẻ em trên thực tế.
3. Các hành vi bị nghiêm cấm của cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em:
Căn cứ theo quy định tại Điều 6 của Văn bản hợp nhất Luật trẻ em năm 2018 có quy định về các hành vi bị nghiêm cấm. Cụ thể như sau:
– Nghiêm cấm hành vi tước đoạt quyền sống của trẻ em dưới bất kỳ hình thức nào, có hành vi bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán hoặc bắt cóc, có hành vi đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trái quy định của pháp luật;
– Xâm hại tình dục, có hành vi bạo lực, bóc lột trẻ em, lạm dụng trẻ em, tổ chức hoặc hỗ trợ, xúi giục hoặc ép buộc trẻ em thực hiện hành vi tạo hôn trái quy định của pháp luật;
– Sử dụng, rủ rê, kích động, xúi giục, lợi dụng, lôi kéo, ép buộc hoặc dụ dỗ trẻ em thực hiện các hành vi vi phạm quy định của pháp luật, xúc phạm danh dự và nhân phẩm của người khác trái quy định của pháp luật;
– Ngăn cản trẻ em thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, không cung cấp các thông tin về trẻ em bị xâm hại, che dấu hoặc ngăn cản việc cung cấp thông tin Về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, trẻ em bị bạo lực gia đình, cơ sở giáo dục hoặc các cơ quan, cá nhân có hành vi bóc lột và bạo lực hoặc xâm hại trẻ em;
– Có hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em xuất phát từ đặc điểm cá nhân, đặc điểm giới tính, đặc điểm dân tộc, hoàn cảnh gia đình, quốc tịch và tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em;
– Cho trẻ em sử dụng các loại chất kích thích, các loại chất gây nghiện, sử dụng rượu bia, sử dụng thuốc lá, sử dụng các loại thực phẩm không đảm bảo an toàn và có hại cho trẻ em;
– Cung cấp dịch vụ internet và các dịch vụ khác cho trẻ em trái quy định của pháp luật, sản xuất, sao chép, vận hành, lưu hành, vận chuyển, tàng trữ, phát tán, sở hữu, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi và các loại trò chơi, những sản phẩm khác phục vụ cho đối tượng là trẻ em nhưng có nội dung ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường và quá trình phát triển lành mạnh của trẻ em, không phù hợp với lứa tuổi và không phù hợp với sức khỏe của trẻ em;
– Công bố, cung cấp các thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, tiết lộ các thông tin liên quan đến bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em với độ tuổi từ 07 tuổi trở lên và của cha, mẹ hoặc người giám hộ của trẻ em đó;
– Lợi dụng việc nhận chăm sóc thay thế trẻ em để xâm hại trẻ em trái quy định của pháp luật, lợi dụng các chế độ và chính sách và cơ quan nhà nước có thẩm quyền dành cho trẻ em để trục lợi, lợi dụng chính sách của nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cá nhân và tổ chức trong xã hội dành cho trẻ em để trục lợi cá nhân;
– Đặt cơ sở dịch vụ, cơ sở sản xuất, đặt các kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, độc hại, có nguy cơ trực tiếp làm phát sinh cháy nổ gần cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, các cơ sở giáo dục ý tế, các cơ sở văn hóa, các địa điểm vui chơi giải trí dành cho trẻ em, đặt cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em hoặc các cơ sở giáo dục y tế, các địa điểm văn hóa vui chơi giải trí của trẻ em gần với cơ sở dịch vụ và các cơ sở sản xuất hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, các kho chứa hàng hóa gây ô nhiễm môi trường, các cơ sở sản xuất hàng hóa độc hại, có nguy cơ ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của trẻ em hoặc có nguy cơ trực tiếp phát sinh cháy nổ;
– Lấn chiếm hoặc sử dụng các cơ sở hạ tầng dành cho việc học tập, vui chơi giải trí và các hoạt động dịch vụ bảo vệ trẻ em sai mục đích, trái quy định của pháp luật;
– Từ chối hoặc không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời hỗ trợ và can thiệp khi trẻ em có nguy cơ gặp nguy hiểm, trẻ em đang trong tình trạng bị tổn hại thân thể hoặc bị tổn hại danh dự nhân phẩm.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Văn bản hợp nhất 14/VBHN-VPQH 2018 Luật Trẻ em.