Vấn nạn bạo lực gia đình hiện nay đã và đang trở nên rất nhức nhối. Tuy nhiên nhiều người vẫn vô cùng thờ ơ trước hành vi bạo lực gia đình của những người xung quanh. Vậy không ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình thì sẽ bị xử phạt như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Không ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình bị phạt thế nào?
Hiện nay, bạo lực gia đình được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Hiện tượng bạo lực gia đình giữa chồng đối với vợ hoặc giữa cha mẹ với con cái trong gia đình có thể thấy là một trong những dạng bạo lực gia đình phổ biến nhất giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Tuy nhiên có thể nói, hành vi người chồng gây ra chủ yếu và lớn nhất đó là bạo lực về thể chất, và đây cũng chính là dạng dễ nhận biết và cần bị lên án mạnh mẽ nhất đối với hoạt động bạo lực gia đình trong xã hội. Tuy nhiên không phải tất cả các hành vi bạo lực của người chồng đều là bạo lực về thể chất, mà cũng có nhiều lúc người chồng có thể gây ra những hành vi bạo lực gia đình tổn thương về mặt tâm lý cho người vợ như chửi bới hoặc xúc phạm danh dự nhân phẩm, người chồng có hành vi cưỡng bức về tính dụng hoặc kiểm soát về kinh tế. Ngược lại trong xã hội ngày nay thì hiện tượng người vợ sử dụng bạo lực đối với chồng cũng không phải là hiếm gặp. Không chỉ dừng lại ở những cách ứng xử thô bạo và người vợ cũng hoàn toàn có thể gây tổn thương về mặt thể chất, và thậm chí là tính mạng đối với người chồng. Ngoài ra hiện nay còn xuất hiện tình trạng bạo lực giữa cha mẹ và con cái. Theo tâm lý truyền thống thói quen của người Việt Nam từ trước đến nay thì vấn đề bạo lực giữa cha mẹ và con cái đã được xã hội “chấp nhận”. Có thể dễ dàng nhận thấy những hành động dạy bảo con cái xuất phát từ quan niệm “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” và giáo dục thì cần phải vô cùng nghiêm khắc. Bên cạnh những hành vi từ phía cha mẹ đối với con thì bạo lực gia đình xuất phát từ những người con đối với cha mẹ cũng đang ngày càng gia tăng với số lượng lớn. Một số trường hợp những người trẻ tuổi gây ra nhiều tổn thất về cả vật chất và tinh thần cho cha mẹ do thiếu sự kiểm chế và xuất phát từ tâm lý đua đòi hư hỏng hoặc một số lý do cơ bản khác. Trước thực trạng đáng báo động đó, pháp luật cũng quy định cụ thể về trách nhiệm ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình đối với các cá nhân trong xã hội. Đây được coi là một trong những biện pháp cần thiết để ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và hỗ trợ cho nạn nhân bị bạo lực gia đình. Hành vi không ngăn chặn bạo lực gia đình sẽ bị coi là hành vi vi phạm quy định của pháp luật và sẽ bị xử lý theo mức xử phạt tương ứng, tùy vào tính chất và hậu quả xảy ra trên thực tế.
Căn cứ theo quy định tại Điều 62 của Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, có quy định về mức xử phạt đối với những đối tượng không ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình. Theo đó, sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với những chủ thể thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
– Biết hành vi bạo lực gia đình đang xảy ra và có điều kiện để ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình đó nhưng không ngăn chặn;
– Biết hành vi bạo lực đang xảy ra mà không thông báo cho cơ quan tổ chức hoặc người có thẩm quyền đến để xử lý kịp thời;
– Cản trở người khác phát hiện và khai báo hành vi bạo lực gia đình đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy có thể nói, người có hành vi không ngăn cản hiện tượng bạo lực gia đình sẽ bị xử phạt theo mức nêu trên.
Và hành vi không ngăn cản hiện tượng bạo lực gia đình cũng là hành vi vi phạm quy định tại Điều 12 của Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, có quy định về quyền và trách nhiệm của các cá nhân trong xã hội đối với hoạt động phòng chống bạo lực gia đình. Theo đó thì các cá nhân trong xã hội khi phát hiện ra hành vi bạo lực gia đình sẽ phải có trách nhiệm báo tin báo tố giác ngay cho cơ quan tổ chức và cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, khi phát hiện ra hành vi bạo lực gia đình thì các cá nhân trong xã hội cần phải tham gia tích cực để bảo vệ và hỗ trợ người bị bạo lực gia đình và thực hiện các hoạt động cần thiết khác trong quá trình phòng chống bạo lực gia đình ở công cộng. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tích cực khen thưởng khi nhận thấy các cá nhân có thành tích tốt trong quá trình phòng chống công tác bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng, các cá nhân này sẽ được bảo vệ và giữ bí mật về thông tin cá nhân khi tiến hành hoạt động báo tin báo tố giác hành vi bạo lực gia đình vi phạm với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, và được cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ để bù đắp tổn hại về sức khỏe, tính mạng và thiệt hại về tài sản trong quá trình tham gia hoạt động phòng chống bạo lực gia đình theo quy định của pháp luật. Hành vi không ngăn chặn bạo lực gia đình có thể gây ra nhiều hậu quả khó lường. Vì vậy, người dân cần phải nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống bạo lực gia đình và tích cực tố giác với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi bạo lực gia đình khi phát hiện, tích cực hỗ trợ các nạn nhân trong vấn nạn bạo lực gia đình và phải có các hành vi phù hợp để ngăn chặn hiện tượng bạo lực gia đình trên thực tế.
2. Những hành vi được xem là bạo lực gia đình hiện nay:
Căn cứ theo quy định tại Điều 3 của Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2022 có quy định về những hành vi bạo lực gia đình. Theo đó, có thể kể đến một số hành vi được xem là hành vi bạo lực gia đình cụ thể như sau:
– Hành hạ hoặc ngược đãi, có hành vi đánh đập hoặc đe dọa hoặc có hành vi cố ý xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng của các thành viên trong gia đình;
– Hành vi lăng mạ hoặc cố ý xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm của các thành viên trong gia đình;
– Cưỡng ép chứng kiến bạo lực đối với người hoặc chứng kiến bạo lực đối với các con vật nhằm mục đích gây áp lực thường xuyên về mặt tâm lý đối với các thành viên trong gia đình;
– Bỏ mặc mà không quan tâm các thành viên trong gia đình, không có giữa các thành viên và không chăm sóc các thành viên gia đình, mà đặc biệt là trẻ em và phụ nữ mang thai, những đối tượng được xác định là phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, hoặc người cao tuổi, người khuyết tật theo quy định của pháp luật về khuyết tật và người không có khả năng tự chăm sóc và nuôi dưỡng chính bản thân mình, không tiến hành hoạt động giáo dục các thành viên trong gia đình được xác định là trẻ em;
– Có thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử về hình thể, phân biệt đối xử về giới hoặc giới tính hoặc năng lực của các thành viên trong gia đình với nhau;
– Hành vi ngăn cản các thành viên trong gia đình gặp gỡ và tiếp xúc với mối quan hệ hợp pháp và lành mạnh, có hành vi cô lập và gây áp lực thường xuyên về mặt tâm lý đối với các thành viên trong gia đình;
– Ngăn cản việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông bà và cháu, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng với nhau, giữa anh chị em ruột với nhau, có hành vi tiết lộ hoặc làm phát tán các thông tin về đời sống riêng tư và bí mật cá nhân hoặc bí mật gia đình của các thành viên trong gia đình nhằm mục đích xúc phạm trực tiếp đến danh dự và nhân phẩm;
– Có hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục trái ý muốn của đối phương, cưỡng ép trình diễn các hình thức khiêu dâm và ép nghe các âm thanh, xem các hình ảnh và đọc các nội dung mang tính chất kích thích bạo lực và khiêu dâm;
– Cưỡng ép tảo hôn hoặc cưỡng ép ly hôn hoặc cưỡng ép kết hôn trái quy định của pháp luật, cản trở kết hôn hoặc cản trở ly hôn tự nguyện và tiến bộ;
– Cưỡng ép mang thai hoặc phá thai và có hành vi lựa chọn giới tính thai nhi;
– Chiếm đoạt hoặc hủy hoại tài sản chung của các thành viên trong gia đình hoặc tài sản riêng của các thành viên trong gia đình;
– Cưỡng ép các thành viên trong gia đình học tập hoặc lao động và đóng góp tài chính quá khả năng của họ, kiểm soát tài sản và thu nhập của các thành viên trong gia đình nhằm tạo ra tình trạng lệ thuộc về mặt vật chất và kinh tế;
– Cưỡng ép thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp của mình trái pháp luật.
Vì vậy có thể nói, hành vi bạo lực gia đình hiện nay được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và vô cùng đa dạng phức tạp. Vì vậy, cần thiết phải nâng cao ý thức của người dân trong quá trình phòng chống bạo lực gia đình và ngăn chặn tối đa hành vi bạo lực gia đình xảy ra trên thực tế.
3. Biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và bảo vệ, hỗ trợ người bị bạo lực gia đình:
Căn cứ theo quy định tại Điều 22 của Luật phòng chống bạo lực gia đình năm 2022 có quy định về các biện pháp ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và hỗ trợ cho nạn nhân bị bạo lực gia đình. Theo đó thì có thể kể đến một số biện pháp ngăn chặn và hỗ trợ bảo vệ nạn nhân bạo lực gia đình như sau:
– Buộc chấm dứt hành vi bạo lực gia đình của các đối tượng có hành vi trái quy định của pháp luật;
– Yêu cầu người có hành vi bạo lực gia đình đến trụ sở của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là công an xã phường nơi xảy ra hành vi bạo lực gia đình đó để làm việc theo quy định của pháp luật;
– Cấm tiếp xúc dưới mọi hình thức;
– Bố trí nơi tạm lánh và hỗ trợ các nhu cầu cần thiết cho nạn nhân bạo lực gia đình, trợ giúp pháp lý và trợ giúp tâm lý để giúp nạn nhân ổn định về tâm lý và kỹ năng để ứng phó với hiện tượng bạo lực gia đình;
– Chăm sóc và điều trị tích cực cho nạn nhân bạo lực gia đình để ổn định về mặt tâm lý và sức khỏe, giáo dục và hỗ trợ chuyển đổi hành vi bạo lực gia đình;
– Góp ý và phê bình trực tiếp với có hành vi bạo lực gia đình tại cộng đồng dân cư và thực hiện các công việc cần thiết khác để phục vụ cho cộng đồng;
– Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính phù hợp với quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, thực hiện đầy đủ các biện pháp ngăn chặn và bảo vệ người bị hại phù hợp với quy định của pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022;
– Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.