Dưới đây là một số bản án tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu mà Luật Dương Gia muốn gửi đến quý bạn đọc.
Mục lục bài viết
1. Bản án tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu:
Năm 1998 gia đình bà P có nhu cầu mua đất tại huyện Xuân Lộc nên bà P có nhờ ông Phạm Bá T1 tìm mua đất tại huyện Xuân Lộc. Vì ông T1 là em ruột của bà P nên bà P tin tưởng đã giao toàn bộ việc giao dịch cũng như làm các thủ tục giấy tờ cho ông T1. Khoảng năm 1998, ông T1 có mua cho bà P 16.559m2 đất nông nghiệp, thuộc các thửa đất số 151,152,154 và 123, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, đến ngày 03/5/2000 bà P được Ủy ban nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: Q333216 đứng tên Hộ bà Phạm Thị P. Trong số diện tích đất trên, vào năm 2005 bà P có chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị O diện tích đất 7.526 m2, thuộc các thửa đất số 152,154 và 123, tờ bản đồ số 50, xã X. Sau khi chuyển nhượng đất cho bà O, bà P có cho ông T1 số tiền là 37.000.000 đồng, phần diện tích đất còn lại là 9.033 m2 bà P để lại làm nơi chôn cất người thân trong gia đình. Đến ngày 20/4/2005, tại nhà của bà Nguyễn Thị H1 là mẹ ruột của bà P, bà P đã lập bản cam kết để diện tích đất 9.033 m2 làm nơi chôn cất những người thân trong gia đình và giao bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 151 cho mẹ ruột giữ có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị M, bà Phạm Thị U và ông Phạm Bá T1 là chị em ruột của bà P. Sau khi bà P sang nhượng đất cho bà O, bà P có giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Q333216 cho ông T1 làm thủ tục sang tên tách thửa cho bà O, vì bà P ở Biên Hòa lại không biết các thủ tục giấy tờ, nên lợi dụng việc này ông T1 đã đưa cho vợ chồng bà P các giấy tờ ký khống để ông T1 giả làm một hợp đồng tặng cho vợ chồng ông T1 diện tích đất 9.033m2, thửa đất 151, tờ bản đồ số 50 mà trước đây bà P hứa làm đất chôn cất người thân trong gia đình. Nay bà P xác định bà chưa bao giờ cho vợ chồng ông T1 thửa đất nói trên.
Đối với hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số: 100; Quyển số 01 TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ký ngày 22/8/2007 là giả mạo nên bà P yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng trên và yêu cầu buộc các đồng thừa kế là bà Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q là người đang quản lý, sử dụng diện tích đất trên phải giao trả cho bà P, ông Đ, ông T và bà T3 diện tích đất 9.033m2, thửa đất số 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, trên đất hiện có 07 ngôi mộ. Nếu yêu cầu của bà P được chấp nhận thì hậu quả của việc hủy hợp đồng số: 100 bà P không có ý kiến hay yêu cầu gì. Riêng 3000 cây tràm bà H trồng năm 2019, thời điểm này bà P đã làm đơn khởi kiện tại Tòa án đang là đất trống, nay bà H tự trồng cây tràm trên đất không thông báo cho Tòa án và bà P biết. Tuy nhiên, nếu yêu cầu của bà P được chấp nhận, bà P sẽ tự nguyện thanh toán lại giá trị cây tràm trên đất cho bà H theo giá của công ty thẩm định giá.
Tòa án sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P.
– Tuyên hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số: 100; Quyển số 01 TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ký ngày 22/8/2007 đối với diện tích đất 9.033m2, thửa đất 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, trên đất hiện có 07 ngôi mộ và 3000 cây tràm trồng năm 2019. Tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: AK 609437 do Ủy ban nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai cấp ngày 24/9/2007 cho ông Phạm Bá T1 và bà Nguyễn Thị H.
– Trong thời hạn 06 tháng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật buộc bà
Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q phải giao trả cho Hộ bà Phạm Thị P diện tích đất 9.033m2, thửa đất 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, trên đất hiện có 07 ngôi mộ và 3000 cây tram trồng năm 2019.
– Bà Phạm Thị P có nghĩa vụ thanh toán giá trị cây tràm là 27.000.000
đồng cho bà Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q.
– Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu do giả tạo dẫn đến hợp đồng vô hiệu do lỗi của bà P, bà H, ông T1 nên không xem xét thiệt hại xảy ra.
Tòa án phúc thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị P.
2. Tuyên hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số: 100; Quyển số 01 TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ký ngày 22/8/2007 giữa bà Phạm Thị P, ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Phạm Thiên T, ông Nguyễn Phạm Đại T, bà Trương Thị Thu T4 với ông Phạm Bá T1, bà Phạm Thị H đối với diện tích đất 9.033m2, thửa đất 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
3. Trong thời hạn 06 (sáu) tháng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật, buộc bà Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q phải giao trả cho bà Phạm Thị P, ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Phạm Thiên T, ông Nguyễn Phạm Đại T diện tích đất 8475m2 được giới hạn bởi các mốc 1,2,3,a,b,c,5,6,7,8,9,10,11,1 thuộc thửa đất số 151, tờ bản đồ số 50, tại xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, trên đất có 07 (bảy) ngôi mộ và 3000 (ba ngàn) cây tràm trồng vào năm 2019 (theo Bản đồ hiện trạng khu đất số 4450/2022 ngày 19/8/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai – Chi nhánh huyện Xuân Lộc).
4. Bà Phạm Thị P tự nguyện thanh toán cho bà Nguyễn Thị H, chị Phạm Thị Tuyết A và anh Phạm Quốc Đăng Q giá trị cây tràm là 27.000.000 (hai mươi bảy triệu) đồng.
5. Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị H phải hoàn trả cho bà Phạm Thị P chi phí tố tụng số tiền là 22.208.000 (hai mươi hai triệu hai trăm lẻ tám nghìn) đồng.
6. Bà Phạm Thị P, ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Phạm Thiên T, ông Nguyễn Phạm Đại T có nghĩa vụ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2. Bản án số 08/2022/DS-PT ngày: 24/01/2022 Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở:
Ông Võ Đình L và các em là bà Võ Thị C, Võ Thị Th là các con của ông Võ Đình Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1934. Vào khoảng năm 1985 ông L mua một lô đất có diện tích 488m2, tại địa chỉ: Số 50 NSS, phường Q, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum. Đến năm 1986 ông L bắt đầu xây dựng nhà ở với diện tích 28m, mỗi năm ông lại tiến hành tu bổ dần thành hiện trạng nhà như bây giờ, thời điểm này ông chưa làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mảnh đất trên. Năm 1987 ông đưa mẹ là bà Nguyễn Thị Đ và em gái là Võ Thị Th từ dưới tỉnh Bình Định lên số nhà 50 NSS, thành phố Kon Tum để tiện thể chăm sóc mẹ. Bản thân ông có 02 (hai) đời vợ và 07 (bảy) người con, ông muốn để lại lô đất và nhà trên để làm từ đường hương khói cho tổ tiên, không muốn các con tranh dành tài sản này nên năm 1999 ông đã để mẹ là bà Nguyễn Thị Đ đứng tên thay ông trên giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số 03, tờ bản đồ số 47, diện tích 488m2. Đến năm 2010 bà Nguyễn Thị Đ phát bệnh nặng, từ đó đến nay bà không kiểm soát được hành vi của mình, chỉ nằm một chỗ, đầu óc không được tỉnh táo. Trong thời gian dài ông và các em chăm sóc mẹ. Đến khoảng đầu năm 2020 ông và các em là bà Võ Thị C, Võ Thị Th mới biết mẹ ông là bà Nguyễn Thị Đ tặng cho Quyền sử dụng đất và nhà ở nêu trên cho anh Võ Bảo  là con trai của ông theo hợp đồng tặng cho ngày 17/3/2018. Sau đó, Sở tài nguyên môi trường tỉnh Kon Tum đã cấp cho anh Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q, Giấy chứng nhận quyền đất và nhà ở số CM80326, số vào sổ cấp GCN: CS03795, ngày 05/4/2018. Khối tài sản trên là công sức ông trực tiếp tạo dựng nên, nhưng ông không biết gì về việc bà Đ tặng cho con trai ông là anh Võ Bảo  và thời điểm tặng cho tài sản thì mẹ ông là bà Nguyễn Thị Đ hoàn toàn không đủ minh mẫn để thực hiện việc tặng cho. Vì vậy, ông đề nghị Tòa án giải quyết hủy hợp đồng tặng cho ngày 17/3/2018 giữa bà Nguyễn Thị Đ và anh Võ Bảo  được công chứng viên Quách Cao Y thực hiện công chứng hợp đồng tặng cho.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu về việc “Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở” giữa bà Nguyễn Thị Đ với anh Võ Bảo  của nguyên đơn ông Võ Đình L, đơn đề ngày 17/11/2020. Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở ngày 17/3/2018 giữa bà Nguyễn Thị Đ và anh Võ Bảo  do văn phòng Công chứng NTN, tỉnh Kon Tum chứng thực. Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum, Chi Nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Kon Tum, căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng và nhà ở đã cấp cho anh Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và nhà ở số CM800236, số vào sổ cấp GCN: CS03795, ngày 05/4/2018 đứng tên bà Nguyễn Thị Đ. Ông Võ Đình L phải trả cho anh Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q số tiền 28.420.877 đồng.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:
Chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ chị Nguyễn Hoàng Tố Q đề ngày 12/9/2021. liên quan Hủy một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 61/2021/DS-ST, ngày 31/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum về phần ông Võ Đình L phải trả cho anh Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q số tiền 28.420.877 đồng, 2. Căn cứ khoản 11 Điều 26; Điều 34; Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Điều 122; Điều 125; Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015. Căn cứ Điều 100, Điều 167 Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ Điều 8; Điều 17; Điều 40; Điều 41; Điều 44; Điều 46; Điều 48; Điều 63; Điều 64 Luật Công chứng 2014. Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu về việc “Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở” giữa bà Nguyễn Thị Đ với anh Võ Bảo A của nguyên đơn ông Võ Đình L, đơn đề ngày 17/11/2020. Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và nhà ở ngày 17/3/2018 giữa bà Nguyễn Thị Đ và anh Võ Bảo  do văn phòng Công chứng NTN, tỉnh Kon Tum chứng thực vô hiệu. Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Kon Tum, Chi Văn phòng Đăng ký đất đại thành phố Kon Tum, căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng và nhà ở đã cấp cho Võ Bảo  và chị Nguyễn Hoàng Tố Q, Giấy chứng nhận quyền đất và nhà ở số CM800236, số vào sổ cấp GCN: CS03795, ngày 05/4/2018 đứng tên bà Nguyễn Thị Đ
3. Bản án số: 247/2021/DS-PT Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất:
Trước đây, Bà Đống Thị T có canh tác, quản lý, sử dụng các phần đất
thuộc thửa 128 tờ bản đồ số 3, diện tích 1230m2; thửa 113, diện tích 2997,9m2; thửa 132, diện tích 112,8m2; thửa 112, diện tích 469,4m2, cùng tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. Nguồn gốc phần đất này là của cha mẹ để lại cho bà T và ông Đ nhưng ông Đ để cho bà T kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu vào năm 1990. Bà T sử dụng đất đến ngày 31/3/2015 thì lập di chúc cho ông Đ các thửa 113, 132, 11.2, 128 nêu trên. Di chúc được công chứng tại Văn phòng công chứng số 1 tỉnh Bến Tre.
Đến ngày 29 tháng 12 năm 2015, bà T và ông Đ thấy Ông Đống Minh Đ1 (cháu con người em trai thứ 5) nợ nần, không còn tài sản nên mới kêu về ở chung và cho ông Đ1 khoảng 2000m2 đất tại thửa 128, tờ bản đồ số 3, diện tích 1230m2 và thửa 112, tờ bản đồ số 11, diện tích 469,4m2 với điều kiện ông Đ1 phải nuôi bà T đến cuối đời. Lúc ra làm thủ tục tại xã thì thửa đất 128 đang tranh chấp với ông Nguyễn Văn T2 nên bà T kêu ông Đ1 đóng án phí làm thủ tục, nhưng ông Đ1 không làm. Do đó, bà T kêu ông Đ làm thủ tục khởi kiện để đòi lại phần đất đó, nếu đòi lại được thì cho ông Đ như tờ di chúc, chỉ cho ông Đ1 phần đất mộ thuộc thửa 112. Tuy nhiên, không biết bằng cách nào ông Đ1 đã làm thủ tục để bà T ký chuyển toàn bộ phần đất thửa 113, 132, 112 cho ông Đ1. Bà T xác định bà không có ý định chuyển cho ông Đ1 các thửa 113 và 132, phần đất này bà T để di chúc lại cho ông Đ. Đến năm 2018, ông Đ1 nói với người khác là các phần đất này đã chuyển nhượng cho ông Đ1 hết rồi nên bà T mới nhờ ông Đ tìm hiểu. Đến năm 2020, bà T phát hiện ra chính xác các thửa đất này đã sang tên qua ông Đ1 và ông Đ1 đã sang tên qua ông Mân nên bà buồn và qua nhà Ông Đống Văn Đ ở. Vì vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/12/2015 giữa Bà Đống Thị T và Ông Đống Minh Đ1, hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 giữa Ông Đống Minh Đ1 và Ông Đống Minh M đối với các thửa đất 112, 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre, yêu cầu ông Đ1 và ông M phải trả lại nhà, đất cho bà T. Người đại diện theo ủy quyền của bà T xác định thì bà T không có lăn tay trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/12/2015.
Tuy nhiên, sau đó bà T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/12/2015 giữa Bà Đống Thị T và Ông Đống Minh Đ1, hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 giữa Ông Đống Minh Đ1 và Ông Đống Minh M đối với các thửa đất 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre, buộc ông Đ1 và ông M trả lại các thửa đất 113, 132, rút yêu cầu khởi kiện đối với thửa đất 112, bà T đồng ý cho ông Đ1 thửa 112.
Tòa án sơ thẩm tuyên:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh Đ1, Ông Đống Minh M về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 07/12/2015 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 đối với thửa 112, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre do Ông Đống Minh M đứng tên trên giấy chúng nhận quyền sử dụng đất (có họa đồ kèm theo).
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh Đ1, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh M.
– Giữ nguyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
07/12/2015 giữa Bà Đống Thị T với Ông Đống Minh Đ1 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 giữa Ông Đống Minh Đ1 với Ông Đống Minh M đối với thửa 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre
– Buộc Ông Đống Minh Đ1 phải hoàn trả lại cho Bà Đống Thị T 1/3 giá trị quyền sử dụng đất thửa 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre với số tiền là 438.920.000 đồng và 1/3 giá trị nhà, cây trồng của bà T là 43.697.000 đồng, tổng cộng là 482.617.000 đồng.
– Ông Đống Minh M được toàn quyền sử dụng đối với thửa 113, tờ bản đồ số 11, diện tích 2954,lm2 tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh Đ1, Ông Đống Minh M về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất 07/12/2015 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 đối với thửa 112, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện 45C, tỉnh Bến Tre do Ông Đống Minh M đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (có họa đồ kèm theo).
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh Đ1, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Đống Thị T đối với Ông Đống Minh M.
– Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/12/2015 giữa Bà Đống Thị T với Ông Đống Minh Đ1 và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29/7/2019 giữa Ông Đống Minh Đ1 với Ông Đống Minh M đối với thửa 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
– Buộc Ông Đống Minh Đ1, Ông Đống Minh M phải hoàn trả lại cho Bà Đống Thị T quyền sử dụng đất thửa 113, 132, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre. Bà Đống Thị T được toàn quyền sử dụng đối với thửa 113, tờ bản đồ số 11, diện tích 2954,lm2 tọa lạc tại ấp C, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre