Cố ý gây thương tích là một trong những hành vi xảy ra không ít trong đời sống xã hội xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Vậy trường hợp cố ý gây thương tích trên 11% có bắt buộc phải ngồi tù hay không?
Mục lục bài viết
1. Cố ý gây thương tích trên 11% có buộc phải ngồi tù không?
Hiện nay, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi khách quan của tội phạm này được quy định là hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đó là hành vi có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn thương đến sức khỏe của con người. Những hành vi này có thể được thực hiện bằng công cụ và phương tiện phạm tội hoặc không có công cụ và phương tiện phạm tội hoặc có thể thực hiện thông qua súc vật hay cơ thể người khác. Hậu quả mà cấu thành tội phạm mô tả là thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe ở mức độ có tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11% trở lên, hoặc dưới tỷ lệ 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau:
– Dùng vũ khí và vật liệu nổ, dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng các thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người. Vũ khí trong trường hợp này có thể là dao găm hoặc kiếm, mã tấu hoặc phi tiêu … vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng tương tự. Thủ đoạn gây hại cho nhiều người là thủ đoạn có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn hại không chỉ cho một người mà cho nhiều người như thủ đoạn bỏ hóa chất gây ngộ độc vào thức ăn chung của gia đình …;
– Dùng axít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm. Axít nguy hiểm được xác định là các loại axít có khả năng gây tổn thương đến bộ phận cơ thể người khi tiếp xúc với những axít này, hóa chất nguy hiểm được nêu ở điều luật này là hóa chất bất kỳ nhưng không phải là axít có khả năng gây tổn hại đến sức khỏe con người;
– Đối với người dưới 16 tuổi hoặc phụ nữ biết là có thai, người già yếu hoặc ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
– Đối với ông bà hoặc cha mẹ hoặc thầy cô giáo của mình, có hành vi phạm tội với người nuôi dưỡng mình hoặc chữa bệnh cho mình;
– Phạm tội có tổ chức hoặc lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội;
– Trong thời gian đang giam giữ hoặc đang chấp hành hình phạt tù theo bản án có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc đang chấp hành các biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đưa vào cơ sở giáo dưỡng và các cơ sở cai nghiện bắt buộc;
– Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
– Có tính chất côn đồ hoặc phạm tội đối với người đang thi hành công vụ, hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Như vậy, những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11 % và không thuộc các trường hợp nêu trên được xác định là chưa cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Còn đối với hành vi cố ý gây thương tích trên 11 % thì không cần kèm theo các yếu tố nêu trên cũng sẽ thỏa mãn cấu thành tội phạm căn cứ tại Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015. Lỗi của người phạm tội trong trường hợp này là lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Người phạm tội có thể mong muốn hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng cũng có thể chỉ chấp nhận các hậu quả này xảy ra trên thực tế. Theo đó thì điều luật quy định các khung hình phạt với tỷ lệ như sau:
– Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% thì có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;
– Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì có thể bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm;
– Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, thì tùy vào mức độ nguy hiểm và tỷ lệ thương tổn cơ thể để áp dụng mức xử phạt tương ứng từ 07 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Theo đó, khi đánh người gây thương tích từ 11% trở lên, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 06 tháng trở lên, thậm chí bị tù chung thân.
Tuy nhiên, tội cố ý gây thương tích được xác định là một trong những tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Căn cứ theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại như sau:
– Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết;
– Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thì vụ án phải được đình chỉ trên thực tế, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tùy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án;
– Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Theo đó thì có thể nói, đối với tội cố ý gây thương tích, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ gọi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại được xác định là người dưới 18 tuổi, những đối tượng được xác định là người có nhược điểm về tâm thần hoặc nhược điểm về thể chất hoặc đã chết. Như vậy, nếu như đó giám định với tỷ lệ thương tích trên 11% (cụ thể là từ 11% đến 30% theo quy định tại khoản 1 Điều 134) nhưng chưa có yêu cầu khởi tố của bị hại thì chưa thể đưa vụ án ra xét xử. Hành vi cố ý gây thương tích trên 11% có thể cũng sẽ không bị ngồi tù nếu như bị hại không có yêu cầu khởi tố hoặc bị hại rút yêu cầu khởi tố phù hợp với quy định của pháp luật, khi hai bên đã ngồi lại và thỏa thuận được với nhau. Vì vậy có thể nói, vấn đề thỏa thuận và thương lượng với bị hại trong tội danh này đóng vai trò vô cùng quan trọng để tránh người phạm tội đi vào vòng lao lý.
2. Các tình tiết giảm nhẹ có thể được hưởng đối với tội cố ý gây thương tích trên 11%:
Căn cứ theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
– Phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân hoặc do hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, nhưng không phải do người phạm tội tự mình gây ra;
– Phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại trên thực tế hoặc đã gây ra thiệt hại nhưng thiệt hại không lớn;
– Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật;
– Phạm tội khi bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức không suất phát từ ý chí tự nguyện, phạm tội trong trường hợp bị hạn chế năng lực nhận thức mà không phải do lỗi của người phạm tội gây ra;
– Phạm tội do bị lạc hậu hoặc người phạm tội được xác định là phụ nữ có thai, người cao tuổi với độ tuổi từ đủ 70 tuổi trở lên, người bị khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định của pháp luật về khuyết tật, những đối tượng được xác định là người bị hạn chế năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi;
– Tự thú tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có hành vi thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải;
– Tích cực hợp tác với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc phát hiện tội phạm và giải quyết vụ án, có công chuộc tội;
– Người phạm tội đạt thành tích xuất sắc trong quá trình sản xuất và chiến đấu, học tập và công tác tại đơn vị, người phạm tội là người có công với cách mạng và cha mẹ, vợ chồng, con là liệt sĩ tham gia kháng chiến.
Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Người có hành vi cố ý gây thương tích có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ theo như phân tích ở trên, hoặc nếu như người có hành vi cố ý gây thương tích có từ hai tình tiết giảm nhẹ nêu trên thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
3. Quy định về quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tội cố ý gây thương tích:
Căn cứ theo quy định tại Nếu 154 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về quyết định khởi tố vụ án hình sự, cụ thể như sau:
– Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ các nội dung cơ bản theo quy định, phải ghi rõ các căn cứ khởi tố, điều, khoản của Bộ luật hình sự năm 2015 được áp dụng và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
– Trong thời hạn 24 giờ, khoảng thời gian này được tính kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra;
– Trong thời hạn 24 giờ, khoảng thời gian này được tính kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan đến viện kiểm sát có thẩm quyền để kiểm sát việc khởi tố;
– Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án phải gửi quyết định đó kèm theo tài liệu liên quan đến Viện kiểm sát cùng cấp.
Theo đó, có thể nói, quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ căn cứ khởi tố, điều, khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).