Hành vi phạm tội nằm trong sự điều chỉnh của Bộ luật Hình sự khi được đưa ra xử lý cần phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định để đảm bảo tính công bằng, minh bạch, đúng người đúng tội. Vậy, các nguyên tắc xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015:
Hiện nay, Bộ luật Hình sự được ban hành thông qua sự tập hợp các hệ thống quy phạm pháp luật để xác định rõ những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Trong luật hình sự sẽ quy định rõ mức hình phạt để có thể áp dụng đối với những người đã thực hiện các tội phạm gây nguy hại cho xã hội.
Một cá nhân, tổ chức có những hành vi vi phạm bị xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự thì phải đảm bảo được tính nghiêm minh, kịp thời và đúng pháp luật. Để điều chỉnh được vấn đề này Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã đặt ra những nguyên tắc nhất định để xử lý tội phạm. Đối với người phạm tội được ghi nhận có 7 nguyên tắc cơ bản, còn đối với pháp nhân thương mại phạm tội thì gồm có bốn nguyên tắc xử lý. Bài viết này sẽ giới thiệu những nguyên tắc xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với hai đối tượng này.
1.1. Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật:
Khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện ra hành vi phạm tội hoặc được cá nhân, tổ chức khác thực hiện việc tố cáo thì cần xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của pháp luật. Nguyên tắc này được sử dụng hiệu quả không chỉ giúp cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm mà còn ý nghĩa phòng ngừa tội phạm.
Đây là nguyên tắc đầu tiên được quy định trong Luật Hình sự, đề cao vai trò của các cơ quan nhà nước các tổ chức và mọi công dân thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm. Nhanh chóng phát hiện kịp thời hành vi vi phạm để hạn chế tối thiểu rủi ro, thiệt hại xảy ra. Ngoài ra, nguyên tắc còn yêu cầu các cơ quan tố tụng cũng phải có trách nhiệm thực hiện tốt nguyên tắc này để điều chỉnh hành vi và đưa ra mức hình phạt có tính chất răn đe với người phạm tội.
1.2. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội:
Công dân khi có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, đánh giá hành vi vi phạm dựa trên các dấu hiệu cấu thành tội phạm đối với một hành vi phạm tội, không được căn cứ vào giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội để đưa ra nhận định. Đối với hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác về người phạm tội, nghiêm cấm việc phân biệt đối xử giữa những người phạm tội có địa vị xã hội khác nhau. Việc vi phạm nguyên tắc này là đang thực hiện xử lý tội phạm thiếu bình đẳng, công bằng.
1.3. Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội:
Với nội dung của nguyên tắc này thì Nhà nước ta luôn thể hiện rõ thái độ với những hành vi vi phạm mà cá nhân hay tổ chức có hành vi gây ảnh hưởng với tính chất nguy hại cho xã hội. Những đối tượng này có thể kể đến: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp người được giữ chức vụ hoặc được giao quyền hạn nhất định nhưng lợi dụng sự ảnh hưởng của mình để can thiệp vào vụ việc với mục đích trục lợi cá nhân, làm ảnh hưởng đến quyền chính đáng của người khác.
1.4. Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra:
Nội dung của nguyên tắc này nói nên tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, quy mô của việc thực hiện tội phạm. Khi có hành vi vi phạm mà việc thực hiện có người giúp sức, hỗ trợ, cùng phạm tội thì có thể đánh giá hậu quả do hành vi thực hiện tội phạm gây ra là ảnh hưởng nghiêm trọng cho xã hội
Pháp luật Việt Nam mặc dù có những quy định nghiêm khắc nhưng cũng vẫn có những chủ trương khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm. Việc đánh giá cá nhân, tổ chức có được nhận khoan hồng hay không sẽ bắt đầu từ lúc tội phạm trước khi bị phát hiện cho đến khi bị phát hiện mà ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra nhằm làm giảm bớt tác hại của tội phạm, đồng thời có tác dụng phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, lập lại trật tự kỷ cương xã hội.
1.5. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục:
Dựa trên quan điểm, ai cũng có thể mắc những sai lầm nên việc một người không may bị sa ngã, có hành vi vi phạm pháp luật thì nguyên tắc này được cụ thể hóa nguyên tắc khoan hồng được áp dụng. Nguyên tắc này chỉ được cân nhắc áp dụng với những người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng và cơ quan có thẩm quyền áp dụng chỉ có Tòa án bởi cơ quan này mới được Nhà nước trao cho thẩm quyền quyết định hình phạt.
Đây là nguyên tắc quyết định hình phạt nhưng không vì thế mà cho rằng Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không cần quan tâm đến nguyên tắc này. Việc tuân thủ và áp dụng đúng đắn nội dung nguyên tắc này thì giúp cho Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát ngay từ các giai đoạn xử lý vi phạm như khởi tố bị can diễn ra đúng quy định, hạn chế tối đa áp dụng biện pháp tạm giam đối với người phạm tội nếu không thật sự cần thiết.
Nguyên tắc khi được đưa ra áp dụng có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở quy định các chế định khác về quyết định hình phạt như: Căn cứ quyết định hình phạt; quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS; án treo…
1.6. Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện:
Mức phạt tù thường được coi là hình phạt nghiêm khắc, mang tính chất răn đe cao không chỉ giáo dục, định hướng người phạm tội quay trở lại con đường hướng thiện mà còn là sự cảnh cáo, răn đe những cá nhân khác đang xuất hiện những tư tưởng chống đối, coi thường pháp luật .
Để hỗ trợ người phạm tội có tư tưởng, việc làm đúng đắn thì khi đang chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ cần cho cá nhân này tham gia vào lao động, học tập để bổ trợ thêm kiến thức và kỹ năng sống sau khi ra ngoài hòa nhập với xã hội. Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với người đã bị kết án và bị phạt tù giam; cũng là nguyên tắc cơ bản mà không phải quốc gia nào cũng quy định. Ở nước ta, người bị phạt tù tuy bị hạn chế quyền tự do, nhưng họ được lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì được xét giảm việc chấp hành hình phạt tù.
Đề cao nguyên tắc sẽ là cơ sở để quy định các chế định khác như: Chế định về miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên; giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt; hoãn chấp hành hình phạt tù; tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù…
1.7. Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích:
Sau khi trải qua khoảng thời gian chấp hành xong hình phạt thì những cá nhân này cần được tạo điều kiện để làm ăn, sinh sống. Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với người bị kết án để khi họ quay trở lại không bị xã hội thành kiến với tội lỗi mà họ đã phạm. Các cơ quan, tổ chức cũng phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho những cá nhân này được hòa nhập với cộng đồng.
Quan trọng nhất là xã hội cần có sự thay đổi cái nhìn về những người đã từng có hành vi vi phạm pháp luật đã chấp hành tốt hình phạt mà pháp luật quy định và quay trở lại thay đổi, sửa chữa sai lầm. Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các doanh nghiệp phải thật sự loại bỏ tư tưởng kỳ thị đối với người bị kết án. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích đối với các đơn vị, các tổ chức kinh tế nhận người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt tù vào đơn vị, doanh nghiệp mình làm việc.
Hiện nay, chế định xóa án tích được đặt ra với ý nghĩa không chỉ xóa đi mặc cảm của xã hội đối với người bị kết án mà còn để chính bản thân vượt qua được bóng vi phạm pháp luật mà cá nhân này đang tự đặt ra rào cản, tư tưởng mặc cảm đối với quá khứ của chính họ. Nguyên tắc này còn là cơ sở để quy định chế định xóa án tích trong BLHS.
2. Nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội trong quy định của Bộ luật hình sự 2015:
Trên thực tế, nếu có bất kỳ hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện thì phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
Khi đưa vụ việc có hành vi vi phạm ra pháp luật thì bắt buộc không có sự phân biệt giữa các pháp nhân với nhau. Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
Việc sử dụng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp để lừa dối, gây nguy hại đến xã hội cũng như quyền lợi của pháp nhân khác, hoặc có hành vi cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì pháp nhân sẽ bị nghiêm trị theo quy định;
Nguyên tắc áp dụng khoan hồng có thể được sử dụng đối với pháp nhân thương mại. Nếu pháp nhân này đã gây ra hậu quả cho xã hội nhưng tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, nhận ra được lỗi sai của mình mà tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.
3. Vai trò quan trọng của Bộ luật hình sự:
Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì luật hình sự có ý nghĩa, vai trò quan trọng như sau:
– Thứ nhất, Bảo vệ các quan hệ xã hội quan trọng đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội: Đối tượng mà luật hình sự bảo vệ bao gồm chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ,quyền con người, quyền công dân và những quyền bình đẳng giữa các đồng bào dân tộc lợi ích của nhà nước,..
– Thứ hai, Bộ luật hình sự còn có nhiệm vụ giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật hơn;
– Thứ ba, Đưa ra quy định điều chỉnh hành vi phạm tội không chỉ mang tính chất răn đe, giáo dục cá nhân hoặc pháp nhân phạm tội mà còn có ý nghĩa phòng ngừa đấu tranh chống lại tội phạm diễn ra. Ba nhiệm vụ trên vừa là ba nhiệm vụ riêng biệt nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau nhiệm vụ giáo dục dùng làm cơ sở của đấu tranh chống tội phạm nhưng giáo dục cũng chính là cơ sở của nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm và nhiệm vụ bảo vệ của bộ luật hình sự.
Văn bản pháp luật được sử dụng: Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).