Các căn cứ quyết định hình phạt có vai trò quan trọng trong việc quyết định hình phạt của Tòa án. Hầu hết các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đều có chung nhận thức, căn cứ vào quy định của BLHS là căn cứ có tính chất căn bản, tiền đề bảo đảm cho việc quyết định hình phạt đúng đắn.
Mục lục bài viết
1. Căn cứ quyết định hình phạt là gì:
Đến nay, khoa học luật hình sự vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về căn cứ quyết định hình phạt. Hiện có các quan điểm đưa ra khái niệm về căn cứ quyết định hình phạt như sau:
Theo PGS.TS. Dương Tuyết Miên thì căn cứ quyết định hình phạt bao gồm những nội dung cơ bản như sau:
Các căn cứ quyết định hình phạt là những cơ sở pháp lý được quy định trong Bộ luật hình sự mà Tòa án buộc phải tuân thủ khi quyết định hình phạt đối với cá nhân/pháp nhân thương mại phạm tội nhằm đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích của hình phạt. Bên cạnh đó, theo tác giả Trần Văn Sơn thì:
Các căn cứ quyết định hình phạt là những yêu cầu đòi hỏi có tính bắt buộc do luật hình sự quy định mà Tòa án phải tuân thủ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
Việc quy định các căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong BLHS có ý nghĩa quan trọng, nó là cơ sở pháp lý để dựa vào đó, Tòa án có thể quyết định hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khắc phục, hạn chế tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất trong quyết định hình phạt. Vì vậy, khi quyết định loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể, Tòa án cần phải xem xét, cân nhắc, đánh giá các căn cứ quyết định hình phạt một cách đầy đủ, toàn diện và biện chứng. Giữa các căn cứ quyết định hình phạt có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và luôn thể hiện trong một thể thống nhất. Tòa án cần phải nắm chắc nội dung, ý nghĩa pháp lý của từng căn cứ có tính nguyên tắc đó, cũng như mối liên hệ giữa chúng khi quyết định hình phạt. Điều 50 BLHS đã quy định cụ thể “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.”
Các căn cứ quyết định hình phạt đều có vai trò quan trọng trong việc quyết định hình phạt của Tòa án. Tuy nhiên, phần lớn các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đều có chung nhận thức, căn cứ vào quy định của BLHS là căn cứ có tính chất căn bản, tiền đề bảo đảm cho việc quyết định hình phạt được đúng đắn.
Các căn cứ quyết định hình phạt cụ thể bao gồm:
2. Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự:
Đây là căn cứ cơ bản nhất của quyết định hình phạt và cũng là đòi hỏi quan trọng của nguyên tắc pháp chế XHCN. Khi quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, trước tiên Tòa án phải căn cứ vào các quy định của Phần chung BLHS, đó là: Cơ sở của TNHS (Điều 2), nguyên tắc xử lý (Điều 3), hiệu lực về thời gian của BLHS (Điều 7), chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (các Điều 14, 15, 57), đồng phạm (Điều 17, 58), các quy định về quyết định hình phạt trong chương VIII (Điều 50 đến Điều 59). Những quy định có tính nguyên tắc chung cho từng loại hình phạt trong chương VI (Điều 30 đến Điều 45) như: Những quy định về hệ thống hình phạt, những quy định về nội dung, điều kiện và phạm vi áp dụng của các hình phạt chính và hình phạt bổ sung đối với cá nhân người phạm tội. Những quy định có tính nguyên tắc chung đối với những trường hợp được áp dụng các biện pháp như: Miễn TNHS (Điều 29), miễn hình phạt (Điều 59), án treo (Điều 65). Những quy định ở chương XII Phần chung của BLHS có tính nguyên tắc chung cho việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi.
Sau đó, Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định từ Điều 168 đến Điều 175 của BLHS về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt để xác định hành vi phạm tội là tội phạm cụ thể nào trong nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt? Tội phạm đó đã vi phạm điểm, khoản cụ thể nào và hình phạt được các nhà làm luật quy định cụ thể áp dụng cho tội phạm đó ra sao.
Theo Điều 50 BLHS, căn cứ vào “quy định của BLHS” là căn cứ quyết định hình phạt đầu tiên. Điều này cho thấy các nhà lập pháp đã nhận thức và đánh giá cao vai trò quan trọng của căn cứ “quy định của BLHS”. Chính sự ghi nhận trong BLHS có tính bắt buộc đối với Tòa án khi quyết định hình phạt đã tránh được tình trạng tùy tiện, áp dụng một hình phạt không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với các bị cáo. Hơn nữa, sự ghi nhận căn cứ này trong BLHS còn tạo cơ sở pháp lý giúp cho việc quyết định hình phạt được chính xác và thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
3. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Để có thể quyết định được loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật cho phép, Tòa án phải cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là đặc tính về chất của tội phạm cho phép phân biệt tội phạm ở các chương khác nhau trong phần các tội phạm của BLHS. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là đặc tính về lượng của mỗi tội phạm cụ thể, cho phép phân biệt mức độ nguy hiểm cho xã hội giữa các tội phạm trong cùng nhóm hoặc đối với một tội phạm nhưng trong những trường hợp phạm tội khác nhau. Vì cùng đặc tính về chất, tính chất nguy hiểm cho xã hội của mỗi tội phạm có thể được thể hiện ở những mức độ khác nhau, cho nên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không tách rời nhau. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, BLHS quy định bắt buộc Tòa án phải cân nhắc đồng thời cả tính chất lẫn mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện.
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt chính là mức độ thiệt hại về tài sản. Hành vi phạm tội gây ra mức độ thiệt hại về tài sản càng lớn thì tội phạm càng nặng và hình phạt cũng càng cao. Ngược lại, hành vi phạm tội gây thiệt hại về tài sản càng nhỏ thì tội phạm càng nhẹ và hình phạt càng nhẹ. Tuy nhiên, cần lưu ý với các tội xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu, ví dụ: tội cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Bằng hành vi phạm tội của mình, người phạm tội trước hết xâm phạm đến thân thể, đến tự do của con người để qua đó có thể xâm phạm được sở hữu. Sự xâm hại một trong hai quan hệ xã hội này đều chưa thể hiện được hết bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Do vậy, cả hai quan hệ xã hội bị xâm hại đều được coi là khách thể trực tiếp của tội phạm. Việc xếp các tội trên vào nhóm các tội xâm phạm sở hữu xuất phát từ quan điểm cho rằng mục đích chính của người phạm tội là nhằm vào sở hữu và việc xâm hại quan hệ nhân thân chỉ là phương tiện để đạt được mục đích chính đó. Do vậy, khi xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì ngoài việc xem xét đến mức độ thiệt hại về tài sản thì Tòa án cần xem xét đến hậu quả gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của bị hại.
Trong thực tiễn xét xử, khi quyết định hình phạt thì căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” là căn cứ rất quan trọng. Sự quan trọng này thể hiện ở chỗ, nếu như dựa vào căn cứ thứ nhất – “quy định của BLHS”, Tòa án mới chỉ xác định được phạm vi hình phạt áp dụng cho người phạm tội, còn dựa vào căn cứ thứ hai – “tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”, Tòa án có thể lựa chọn hình phạt cụ thể phù hợp để áp dụng cho người phạm tội. Tuy nhiên, đặt trong mối liên hệ giữa hai căn cứ thì căn cứ thứ nhất là cơ sở, tiền đề cho căn cứ thứ hai – đó là lựa chọn được một hình phạt cụ thể cho bị cáo trong phạm vi khung hình phạt đó.
Trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, dựa vào quy định của BLHS Tòa án có thể xác định được hành vi phạm tội của một chủ thể nào đó đã phạm tội gì? Tội phạm đó cấu thành điểm, khoản nào của điều luật tương ứng và chế tài hình phạt được quy định ở giới hạn nào? Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào quy định của BLHS mà không xem xét tính chất, mức độ chiếm đoạt hoặc gây thiệt hại về tài sản của hành vi phạm tội thì Tòa án sẽ không thể quyết định được một hình phạt chính xác phù hợp đối với người có hành vi phạm tội. Ví dụ: Nguyễn Văn A không có nghề nghiệp, công việc mà chuyến đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản để làm nghề sinh sống và lấy kết quả của lần phạm tội làm nguồn sống chính. Ngày 10/3/2021 Nguyễn Văn A có hành vi lén lút vào nhà chị Lê Thị T trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động Iphone 3 có giá trị là 3.000.000 đồng. Ngày 15/3/2021 Nguyễn Văn A lại tiếp tục có hành vi lén lút vào nhà ông Cao Văn Đ trộm cắp số tiền 2.000.000 đồng. Ngày 18/3/2021, Nguyễn Văn A thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe đạp mini tại nhà anh Nguyễn Văn T trị giá là 2.500.000 đồng. Ngày 20/3/2021, Nguyễn Văn A trà trộn vào đám đông móc túi của người đi đường trộm cắp số tiền 2.000.000 đồng của chị Lê Thị L, tiếp tục móc túi của anh Lê Văn N được 2.630.000 thì bị phát hiện bắt giữ. Trong ví dụ này căn cứ vào quy định của BLHS có thể dễ dàng xác định hành vi của Nguyễn Văn A đã phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173 BLHS. Tuy nhiên, khi căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội ta thấy giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 12.130.000 đồng, căn cứ vào hướng dẫn tại khoản 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ–HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì hành vi của Nguyễn Văn A là có tính chất chuyên nghiệp; từ đó xác định chính xác Nguyễn Văn A đã vi phạm điểm b khoản 2 Điều 173 BLHS và hình phạt được áp dụng nằm trong khung từ 03 năm đến 07 năm tù. Trên cơ sở đó kết hợp với các quy định khác về quyết định hình phạt, các nguyên tắc quyết định hình phạt Tòa án sẽ quyết định chính xác mức hình phạt đối với Nguyễn Văn A.
Thực tiễn xét xử cho thấy, khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, Tòa án thường xem xét các dấu hiệu sau: Quan hệ xã hội bị hành vi phạm tội xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại; Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện; Hậu quả thiệt hại đã gây ra hoặc đe dọa gây ra; Mức độ thực hiện tội phạm như chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tội phạm hoàn thành; Công cụ phương tiện phạm tội, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh thực hiện tội phạm; Lỗi và nguyên nhân, điều kiện phạm tội ... Có thể khẳng định căn cứ “tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” là căn cứ rất quan trọng khi quyết định hình phạt nói chung, quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng.
4. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội:
Nhân thân người phạm tội là một phạm trù xã hội phức tạp được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau như luật hình sự, tội phạm học, tâm lý học, triết học ... Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ, đề cập đến vấn đề này, GS.TS Lê Thị Sơn đã nêu:
Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội cần cân nhắc trong tổng thể khi quyết định hình phạt là những đặc điểm nhân thân sau: – Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự, tái phạm thường hay tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không, là người chưa thành niên phạm tội hay đã thành niên …; – Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh khả năng giáo dục họ như có thái độ tự thú hoặc hối cải, lập công chuộc tội hay có thái độ ngoan cố ...;
– Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ như là người bị bệnh hiểm nghèo, già yếu, phụ nữ có thai hoặc nuôi con nhỏ hoặc là người có hoàn cảnh bản thân hay gia đình đặc biệt khó khăn ....
Xét đến nhân thân người phạm tội là xét đến tổng hợp những quan hệ giữa người ấy với xã hội, tập thể, gia đình, với những người khác và những đặc điểm của bản thân người phạm tội. Nhân thân người phạm tội là một khái niệm rộng, đa dạng, nhưng khi cân nhắc nhân thân người phạm tội để quyết định hình phạt thì không được trừu tượng hóa và tách rời khỏi tội phạm do người đó thực hiện, bởi hình phạt luôn luôn là hình phạt cho hành vi phạm tội đã được thực hiện chứ không phải cho nhân thân của người phạm tội. Xem xét nhân thân người phạm tội khi quyết định hình phạt không có nghĩa là xem xét nhân thân nói chung mà chỉ xem xét những đặc điểm nhất định liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội cũng như liên quan đến mục đích của hình phạt.
Để quyết định hình phạt đúng, một trong những đòi hỏi quan trọng là phải làm rõ những đặc điểm về nhân thân người phạm tội. Những đặc điểm về nhân thân người phạm tội được thể hiện trong lý lịch bị can, bị cáo và các tài liệu khác có liên quan. Không phải mọi tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội đều được xem xét khi quyết định hình phạt mà chỉ những tình tiết có liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội mới được xem xét để quyết định hình phạt, đó là những đặc điểm nhấn thân liên quan trực tiếp với việc thực hiện tội phạm. Nhóm tình tiết phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như: phạm tội lần đầu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp ...; Nhóm tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội khác phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội như: thái độ ăn năn hối cải, đầu thú, tự thú, lập công lớn ...; hay nhóm tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của họ như: người già, phụ nữ có thai...Những đặc điểm nhân thân khác tuy không mang tính chất pháp lý, không liên quan đến tội phạm, không phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi và người phạm tội, nhưng khi quyết định hình phạt Tòa án phải xem xét đến vì các đặc điểm đó có quan hệ đến các đối tượng của chính sách Đảng và Nhà nước như: Người phạm tội thuộc dân tộc ít người, người có công với cách mạng, thuộc gia đình liệt sỹ, nhân sĩ, trí thức có tên tuổi … Tòa án cân nhắc những tình tiết này khi quyết định hình phạt sẽ bảo đảm hình phạt áp dụng cho mỗi bị cáo phù hợp với các nguyên tắc của luật hình sự, phù hợp với đường lối và chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước trong xử lý tội phạm.
Nhân thân người phạm tội không phải là yếu tố cấu thành tội phạm. Nhân thân người phạm tội và chủ thể của tội phạm là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Trong khi, chủ thể của tội phạm là khái niệm dùng để chỉ con người cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội, có năng lực TNHS và đạt độ tuổi nhất định, ngoài ra ở một số tội phạm còn đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt thì nhân thân người phạm tội như đã nêu trên là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ. Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành của tội phạm và là một trong các điều kiện của TNHS; còn nhân thân người phạm tội không chỉ có ý nghĩa đối với việc định tội danh mà có ý nghĩa là một trong các căn cứ quyết định hình phạt. Tuy nhiên, trong một số trường hợp có những đặc điểm về nhân thân người phạm tội đã được quy định là yếu tố loại trừ TNHS, miễn hình phạt, định tội, định khung hình phạt hoặc quy định là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS. Nhân thân của người phạm tội bao gồm cả mặt tốt và xấu.
Tóm lại, nếu như chỉ dựa vào các quy định của BLHS; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để quyết định hình phạt thì Tòa án chỉ có thể lựa chọn được hình phạt cụ thể tuyên cho bị cáo, tuy nhiên, hình phạt đó có thể vẫn chưa thực sự phù hợp với khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Vì vậy, việc nhà làm luật quy định nhân thân người phạm tội là một căn cứ quyết định hình phạt là cần thiết bởi việc quy định này không chỉ giúp Tòa án đánh giá đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà còn giúp Tòa án quyết định hình phạt phù hợp với khả năng cải tạo, giáo dục của bị cáo và hoàn cảnh đặc biệt của họ.
Đối với người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, các yếu tố nhân thân người phạm tội có tầm quan trọng để Tòa án cân nhắc xem xét khi quyết định hình phạt. Ví dụ: A và B cùng đồng phạm tội cướp giật tài sản. Khi xem xét nhân thân của A cho thấy A đã từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản, đến ngày phạm tội mặc dù đã được xóa án tích nhưng cần đánh giá nhân thân của A xấu. Khi xem xét nhân thân của B cho thấy B chưa từng bị kết án, chưa từng bị xử lý hành chính, có công ăn việc làm ổn định, trước khi phạm tội đã chấp hành pháp luật tốt. Do đó việc quyết định hình phạt đối với A phải nặng hơn đối với B, nếu vai trò của 2 bị cáo trong vụ án là như nhau. Như vậy, việc cân nhắc nhân thân người phạm tội giúp cho Tòa án không những hiểu được tính chất con người phạm tội mà còn đánh giá được khả năng giáo dục, cải tạo họ, nguyên nhân, điều kiện của việc thực hiện tội phạm … để có hình phạt và mức hình phạt phù hợp. Trên cơ sở đó, Tòa án thực hiện được nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và bảo đảm nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
5. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS là những tình tiết được quy định trong BLHS hoặc do Tòa án xác định trên cơ sở hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền. Những tình tiết này có ý nghĩa về mặt lượng hình làm giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS, hình phạt đối với người phạm tội trong một khung hình phạt nhất định. BLHS quy định các tình tiết giảm nhẹ TNHS và các tình tiết tăng nặng TNHS tại Điều 51 và Điều 52, làm cơ sở pháp lý cho Tòa án khi quyết định hình phạt. Những tình tiết này có ý nghĩa về mặt lượng hình để giảm hoặc tăng mức hình phạt trong một khung hình phạt nhất định, chứ không có tính chất bắt buộc như tình tiết định tội và định khung hình phạt. Vì vậy, khi xét xử Tòa án phải xác định tội danh và khung hình phạt trước, sau đó mới cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS. Trong phạm vi một khung hình phạt nhất định, những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS cho phép Tòa án cân nhắc để cá thể hóa hình phạt. Các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng TNHS, về nguyên tắc chỉ cho phép giảm nhẹ hoặc tăng nặng trong giới hạn của khung hình phạt nhất định. Dù có nhiều tình tiết tăng nặng TNHS thì
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 51 BLHS có thể chia thành các nhóm sau:
Thứ nhất, nhóm tình tiết giảm nhẹ TNHS ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Những tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc nhóm này bao gồm: Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn – mức độ giảm nhẹ TNHS phụ thuộc vào mức độ thiệt hại xảy ra trên thực tế; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng – mức độ giảm nhẹ TNHS phụ thuộc vào mức độ ít nghiêm trọng của hành vi phạm tội; phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng; phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của người bị hại hoặc người khác gây ra – trong trường hợp này mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật càng cao thì mức độ giảm nhẹ TNHS càng nhiều; phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do tự mình gây ra – mức độ giảm nhẹ TNHS của người phạm tội phụ thuộc vào mức độ khó khăn và mức độ cố gắng tìm cách khắc phục của người phạm tội; phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức – mức độ giảm nhẹ TNHS của người phạm tội phụ thuộc vào mức độ bị đe dọa, cưỡng bức, phạm tội do lạc hậu; người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Thứ hai, nhóm tình tiết giảm nhẹ TNHS phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội, gồm có: Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm – mức độ giảm nhẹ TNHS của người phạm tội phụ thuộc vào thái độ của người đó đối với việc ngăn chặn có tích cực hay không, mức độ thiệt hại được ngăn chặn, người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả – mức độ giảm nhẹ TNHS của người phạm tội phụ thuộc vào sự cố gắng của người phạm tội cũng như mức độ hậu quả được khắc phục trên thực tế, người phạm tội tự thú; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm; lập công chuộc tội; có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, công tác.
Thứ ba, nhóm tình tiết giảm nhẹ TNHS phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội, bao gồm: Người phạm tội là phụ nữ có thai, người phạm tội là người già.
Các tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại Điều 52 BLHS có thể chia thành hai nhóm sau:
Thứ nhất, các tình tiết tăng nặng TNHS ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bao gồm: Phạm tội có tổ chức; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội; phạm tội có tính chất côn đồ; phạm tội vì động cơ đê hèn; cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác trong khi phạm tội hoặc dùng phương tiện, thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người đang ở trong tình trạng không thể tự vệ được; phạm tội đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất công tác hoặc các mặt khác; xâm phạm tài sản nhà nước; phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; xúi giục người chưa thành niên phạm tội; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;
Thứ hai, những tình tiết tăng nặng TNHS phản ánh khả năng cải tạo giáo dục của người phạm tội bao gồm: Phạm tội nhiều lần; tái phạm, tái phạm nguy hiểm; sau khi phạm tội đã có những hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
Nếu trong một vụ án hình sự vừa có sự hiện diện một hoặc nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS lại vừa có một hoặc nhiều tình tiết tăng nặng TNHS thì Tòa án phải đánh giá các tình tiết này một cách tổng thể thống nhất trong mối liên hệ biện chứng và tác động ảnh hưởng qua lại với nhau trong toàn bộ vụ án. Thông thường nếu tính chất của các tình tiết giảm nhẹ TNHS tương đương với tính chất của các tình tiết tăng nặng TNHS thì khi quyết định hình phạt Tòa án coi như không có các tình tiết đó. Nhưng nếu các tình tiết giảm nhẹ TNHS có ý nghĩa giảm nhẹ nhiều hơn thì Tòa án quyết định theo hướng giảm nhẹ TNHS. Ngược lại, nếu các tình tiết tăng nặng TNHS có ý nghĩa tăng nặng nhiều hơn thì Tòa án quyết định hình phạt theo hướng tăng nặng TNHS đối với người phạm tội.
Ví dụ: Bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Điều 104 BLHS, khi xem xét tình tiết tăng nặng bị cáo phạm tội 2 lần trở lên nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS; xem xét các tình tiết giảm nhẹ bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu quả trước khi xét xử bị cáo tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính là 150.000.000 đồng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo lập công chuộc tội tham gia bắt giữ đối tượng có hành vi cướp tài sản; Ngoài ra, bị cáo đầu thú và có bố vợ được tặng Huân chương kháng chiến hạng ba nên được áp dụng các tình tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm b, s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 nên sau khi đối trừ đi 01 tình tiết tăng nặng, bị cáo vẫn còn 02 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 và 02 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 BLHS, vì vậy Tòa án có thể áp dụng Điều 54 BLHS, phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng là phù hợp.
Khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với những người phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt cần chú ý đến các tình tiết giảm nhẹ TNHS phản ánh khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội như người phạm tội đã ngăn chặn làm giảm bớt tác hại của tội phạm, tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại để quyết định hình phạt tương xứng. Đối với các tình tiết tăng nặng TNHS cần lưu ý các tình tiết phạm tội có tổ chức hoặc phạm tội có tính chất chuyên nghiệp để lấy việc chiếm đoạt làm nguồn thu nhập thường xuyên thì cần quyết định hình phạt nghiêm khắc hơn. Việc vận dụng những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS chính xác giúp Tòa án đánh giá đúng đắn tính chất vụ án, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi và người phạm tội, trên cơ sở đó mới có thể quyết định loại và mức hình phạt công bằng, có căn cứ và đúng pháp luật. Đồng thời việc áp dụng đúng đắn các tình tiết này là một trong những bảo đảm cho việc thống nhất cách vận dụng chính sách hình sự của Nhà nước trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm,
Tóm lại, các căn cứ quyết định hình phạt là sự cụ thể hóa của các nguyên tắc quyết định hình phạt và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động quyết định hình phạt của
Tòa án. Nếu không có các căn cứ quyết định hình phạt mà chỉ dựa vào các nguyên tắc quyết định hình phạt thì có thể dẫn đến tình trạng hình phạt Tòa án đã tuyên không có căn cứ, thiếu thống nhất nên khó có khả năng đạt được mục đích của hình phạt. Do đó, các căn cứ quyết định hình phạt sẽ là cơ sở pháp lý để Tòa án dựa vào đó quyết định hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi người phạm tội đã thực hiện, bảo đảm bản án của Tòa án có tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý, khắc phục tình trạng tùy tiện, thiếu thống nhất khi quyết định hình phạt. Đồng thời, việc quy định các căn cứ quyết định hình phạt trong BLHS góp phần củng cố pháp chế XHCN, tuyên truyền củng cố niềm tin trong nhân dân về chính sách hình sự, nghiêm trị kết hợp với khoan hồng để từ đó nhân dân tích cực tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.