Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.
Mục lục bài viết
1. Hình phạt là gì:
Khái niệm hình phạt lần đầu tiên được quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999. Tới BLHS năm 2015 khái niệm hình phạt tiếp tục được quy định tại Điều 30 BLHS như sau: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”. Có thể hiểu rằng khi một người (pháp nhân thương mại) thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm thì họ phải chịu TNHS, nếu không thuộc trường hợp loại trừ TNHS.
Luật hình sự Việt Nam đưa ra một hệ thống hình phạt được hình thành từ hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Cụ thể tại Điều 31 BLHS 2015 quy định, hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất. Mục đích của hình phạt nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
2. Các loại hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở hữu:
Đối với các tội xâm phạm sở hữu thì hình phạt được quy định trong chương XVI như sau:
Về hình phạt chính: Các hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân. Chương XVI của BLHS năm 2015 có 13 điều luật với 46 khoản quy định các tình tiết định tội, định khung hình phạt và 63 lượt hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trong đó có: 02 lượt hình phạt cảnh cáo, 04 lượt hình phạt tiền, 09 lượt hình phạt cải tạo không giam giữ, 44 lượt hình phạt tù có thời hạn, 04 lượt hình phạt tù chung thân.
Về hình phạt bổ sung: Có 11 điều luật quy định về việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Những tội phạm quy định áp dụng hình phạt bổ sung gồm: Cướp tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, sử dụng trái phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản và tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Chỉ có 02 tội không quy định hình phạt bổ sung là tội chiếm giữ trái phép tài sản và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.
– Đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm này thì hình phạt có sự khác biệt so với người từ 18 tuổi trở lên. Có những hình phạt trong loại tội phạm này không được áp dụng với người dưới 18 tuổi như tù chung thân. Ngoài ra, đối với nhóm đối tượng từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì có một số quy định về hình phạt không được áp dụng như với nhóm đối tượng từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi đó là hình phạt tiền. Theo điều 98 BLHS bốn loại hình phạt có thể được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, gồm có: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn.
– Cảnh cáo: Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong số bốn hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Cảnh cáo thể hiện tính chất lên án công khai của Nhà nước đối với người phạm tội. Do tính chất ít nghiêm khắc của cảnh cáo, hình phạt này thường được áp dụng đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội lần đầu có tính chất nhất thời, do bị xúi giục, bị lôi kéo, gây hậu quả không lớn, nhân thân tương đối tốt, có những tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức được miễn TNHS hay miễn hình phạt.
– Phạt tiền: Phạt tiền chỉ được áp dụng là hình phạt chính đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ đủ 16 tuổi dưới 18 tuổi nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức phạt tiền được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định. Hình phạt tiền mang tính cưỡng chế tước bỏ lợi ích vật chất nhằm buộc người phạm tội phải có ý thức tuân thủ pháp luật. Quy định này đã mở rộng khả năng áp dụng hình phạt không có tính chất tước tự do đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong tình hình hiện nay, độ tuổi này một số người dưới 18 tuổi đã có tài sản riêng, vì vậy việc quy định áp dụng hình phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp này là cần thiết và khả thi.
So với quy định tại Điều 30 Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi đối với các đối tượng có thể áp dụng hình phạt tiền. Hình phạt vẫn được áp dụng đối với đối tượng là người dưới 18 tuổi từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi nhưng không chỉ giới hạn ở “người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định” như quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 mà còn mở rộng đến cả các đối tượng từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tại các điều luật cụ thể. Việc mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng hình phạt tiền như trên đã tạo điều kiện cho Tòa án có thêm khả năng lựa chọn hình phạt không tước tự do của người bị kết án khi quyết định hình phạt, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta trong việc xử lý người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi nói riêng.
– Cải tạo không giam giữ: Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét tính chất của tội phạm, nhân thân người phạm tội và yêu cầu phòng ngừa tội phạm cho thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người phạm tội nhưng chưa đến mức cần phải cách ly người đó bằng hình thức phạt tù có thời hạn. Tại khoản 1, Điều 100 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý”. Với hình phạt này người dưới 18 tuổi phạm tội được giáo dục ngay tại chính môi trường sống bình thường của mình. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.
Ngoài ra, Bộ luật hình sự năm 2015 trong việc quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đã bổ sung nghĩa vụ lao động phục vụ cộng đồng của người bị kết án. Đây là quy định chung đối với cá nhân người dưới 18 tuổi và người đã thành niên phạm tội, tại Khoản 4, Điều 36 Bộ luật hình sự quy định:
Trường hợp người phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời hạn chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần. Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Có thể nói đây là một nghĩa vụ mang tính chất tiến bộ, lần đầu tiên được quy định trong bộ luật. Biện pháp lao động phục vụ cộng đồng không chỉ giúp cải tạo người bị kết án, tạo cho họ cơ hội làm việc mà còn mang lại lợi ích cho cộng đồng xã hội, đồng thời giúp người bị kết án có điều kiện để gắn kết và hòa nhập với cộng đồng.
– Tù có thời hạn: Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất trong các biện pháp chế tài được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì vậy, hình phạt này chỉ được áp dụng trong những trường hợp thật sự cần thiết và với mức hình phạt thấp hơn đáng kể so với mức áp dụng đối với người thành niên phạm tội tương tự. Việc áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội luôn là biện pháp cuối cùng trong việc thực hiện chính sách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi áp dụng các hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền và cải tạo không giam giữ không có ý nghĩa về mặt giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Khi áp dụng hình phạt này người dưới 18 tuổi bị cách ly khỏi xã hội trong khoảng thời gian nhất định, phải cải tạo tại trại giam, phải tuân thủ các quy định của trại về lao động, học tập, sinh hoạt. Theo quy định tại Điều 101 BLHS hiện hành, người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo các mức sau đây:
+ Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu điều luật quy định hình phạt nghiêm khắc nhất là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tự mức phạt tù mà điều luật quy định.
+ Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất không quá mười hai năm tù; nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt nghiêm khắc nhất là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
Ngoài ra theo điều 65 BLHS hiện hành khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người dưới 18 tuổi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức trong việc giám sát, giáo dục người đó.