Tội ngược đãi tù binh, hàng binh theo Điều 420 Bộ luật Hình sự 2015 là hành vi đối xử tàn ác, vô nhân đạo đối với tù binh hoặc hàng binh, trái với quy định của pháp luật quốc tế và truyền thống nhân đạo của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hành vi này xâm phạm nghiêm trọng nguyên tắc nhân đạo trong chiến tranh và bị xử lý hình sự nhằm bảo vệ danh dự, uy tín và kỷ luật của quân đội.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về Tội ngược đãi tù binh, hàng binh:
1.1. Tù binh và hàng binh được hiểu như thế nào?
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, để đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam, Đế quốc Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã xây dựng một hệ thống những nhà tù và trại giam dày đặc từ Trung ương cho đến địa phương trên khắp miền Nam Việt Nam để giam cầm những Người cộng sản, những người yêu nước và chiến sĩ cách mạng. Vậy câu hỏi đặt ra: Là tù binh và hàng binh là gì?
Đó là những khái niệm để chỉ những người thuộc lực lượng vũ trang thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia xung kích trong lịch sử hoặc những người tham gia lực lượng vũ trang nhưng không trực tiếp tham gia chiến đấu như phóng viên chiến tranh hoặc nhân viên dân sự trên kia cơ quân sự… bị đối phương bắt giữ trong thời gian tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc của họ. Tù binh và hàng binh theo quy định của pháp luật quốc tế.
Cụ thể là theo Công ước Giơnevơ ngày 12 tháng 8 năm 1949, có ghi nhận rằng: “Tù binh thuộc quyền của quốc gia cầm giữ chứ không thuộc quyền của cá nhân hay đơn vị đã bắt giữ được họ; tù binh phải được tôn trọng về danh dự trong mọi trường hợp; tù binh phải được đối xử như nhau, không có sự phân biệt bất lợi vì lí do chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo, chính kiến trừ những ưu đãi vì lí do sức khỏe, giới tính, tuổi tác; tù binh phải tuân theo pháp luật, mệnh lệnh chung trong các lực lượng vũ trang của quốc gia cầm giữ, quốc gia cầm giữ không được phạt tập thể vì những hoạt động cá nhân: tù binh sẽ được phóng thích và cho hồi hương ngay sau khi kết thúc chiến sự …”.
Hiện nay, vấn đề này đã được cụ thể hóa tại Điều 420 Chương XXV Bộ luật Hình sự năm 2015 với tên gọi là Tội ngược đãi tù binh, hàng binh. Có thể đưa ra khái niệm:
“Tội ngược đãi tù binh, hàng binh là hành vi cố ý đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc trái quy định của pháp luật đối với tù binh, hàng binh mà người phạm tội không được pháp luật cho phép hoặc vượt quá giới hạn cần thiết trong quản lý, giam giữ.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc nhân đạo trong chiến tranh. Việc quy định tội danh này trong Bộ luật Hình sự 2015 thể hiện rõ cam kết của Nhà nước Việt Nam trong việc tuân thủ và thực hiện các nguyên tắc nhân đạo quốc tế trong chiến tranh. Theo các Công ước Genève năm 1949 thì tù binh, hàng binh phải được đối xử nhân đạo, được bảo vệ tính mạng, danh dự và nhân phẩm dù họ từng là đối phương trong chiến đấu. Do đó, quy định xử lý hình sự hành vi ngược đãi không chỉ mang tính răn đe mà còn khẳng định Việt Nam là quốc gia tôn trọng luật pháp quốc tế và đề cao giá trị con người ngay cả trong hoàn cảnh khốc liệt nhất của chiến tranh.
- Thứ hai: Góp phần giữ gìn truyền thống nhân nghĩa, văn hóa quân sự Việt Nam. Dân tộc Việt Nam từ ngàn đời đã có truyền thống “đánh giặc mà vẫn giữ nhân nghĩa, lấy khoan dung để thắng hung tàn”. Trong mọi cuộc kháng chiến, quân đội ta luôn thể hiện tinh thần nhân đạo, tôn trọng tù binh và hàng binh, được bạn bè quốc tế ghi nhận và ngưỡng mộ. Quy định tội danh này là sự kế thừa và tiếp nối bản sắc nhân văn của văn hóa quân sự Việt Nam, khẳng định rằng sức mạnh của quân đội không chỉ nằm ở vũ khí mà còn ở tinh thần nhân nghĩa và kỷ luật thép.
- Thứ ba: Giữ nghiêm kỷ luật quân đội và hình ảnh quốc gia. Tội ngược đãi tù binh, hàng binh còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc củng cố kỷ luật quân đội và bảo vệ uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Hành vi đối xử tàn ác, vô nhân đạo với tù binh không chỉ vi phạm điều lệnh quân đội, mà còn làm tổn hại hình ảnh và danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam, vốn được xây dựng qua nhiều thế hệ với tinh thần “trung với nước, hiếu với dân”. Việc quy định xử lý hình sự hành vi này giúp ngăn chặn các biểu hiện lệch chuẩn trong chiến đấu; đồng thời thể hiện ý chí kiên quyết của Nhà nước trong việc xây dựng một quân đội chính quy, kỷ luật, nhân văn và chuyên nghiệp.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội ngược đãi tù binh, hàng binh hiện nay đang được quy định tại Điều 420 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“Người nào ngược đãi tù binh, hàng binh, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội ngược đãi tù binh, hàng binh:
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của nhà nước để bảo vệ tổ quốc và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn thi hành chính sách hòa bình và hợp tác với các tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Thế nhưng, khi đang tồn tại chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động thì nước ta vẫn cần thiết phải cảnh giác.
Xây dựng quân đội cách mạng chính quy và tinh nhuệ cũng như từng bước hiện đại là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Để tăng cường kỷ luật quân đội và nâng cao sức mạnh cũng như khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội, mỗi quân nhân phải thực hiện tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Việc coi thường kỷ luật quân đội có thể sẽ gây nên những hậu quả khó lường.
Vì thế, Bộ luật Hình sự hiện hành đã quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng kỷ luật quân đội, vi phạm nghĩa vụ và trách nhiệm của quân đội, trong đó bao gồm cả hành vi ngược đãi tù binh được quy định cụ thể tại Điều 420 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Cấu thành tội phạm của Tội ngược đãi tù binh, hàng binh có những dấu hiệu như sau:
2.1. Khách thể:
Tội ngược đãi tù binh, hàng binh xâm phạm trực tiếp đến: Tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của tù binh, hàng binh và Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia kí kết.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này là hành vi ngược đãi tù binh, hàng binh. Trong đó:
“Ngược đãi” được hiểu là đối xử tàn ác, vô nhân đạo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm hoặc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của tù binh, hàng binh, trái với quy định của pháp luật và nguyên tắc nhân đạo trong chiến tranh.
Các hành vi ngược đãi có thể thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Tra tấn, dùng nhục hình, sỉ nhục, bỏ đói, bắt làm việc quá sức, không cứu chữa hoặc không chăm sóc tù binh, hàng binh bị thương, ốm đau, hay có những hành vi mang tính xúc phạm, hạ thấp nhân phẩm của họ.
Hậu quả của tội phạm thường là gây tổn hại đến sức khỏe, thân thể hoặc tinh thần của tù binh, hàng binh, làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín và truyền thống nhân đạo của quân đội. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội ngược đãi tù binh, hàng binh. Chỉ cần người phạm tội thực hiện một trong các hành vi ngược đãi nêu trên là tội phạm đã được coi là hoàn thành.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội ngược đãi tù binh, hàng binh được thực hiện lỗi cố ý.
Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả do hành vi của mình gây ra, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của loại tội phạm này là những người có đầy đủ dấu hiệu về chủ thể chung của tội phạm (tức là không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi phạm tội hoặc đạt độ tuổi nhất định) theo quy định của pháp luật hình sự. Cụ thể thì có thể phân chủ thể thành 04 loại sau đây:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân hoặc viên chức quốc phòng;
- Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện;
- Dân quân tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu;
- Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.
Nhìn chung, tội phạm này chủ yếu là những chủ thể đặc biệt. Đối với những loại tội phạm liên quan đến quân nhân như vậy thì dấu hiệu đặc trưng chủ yếu tập trung ở khách thể và chủ thể của tội phạm. Nó xâm hại đến quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ và chủ yếu là xâm hại đến sức mạnh chiến đấu, kỷ luật quân đội và chế độ công tác quân sự. Điều này lý giải cho việc các nhà xây dựng luật đã tách các loại tội phạm khác nhau thành nhiều trưng riêng trong bộ luật hình sự và chủ thể cũng được quy định ở những điều luật độc lập và chỉ những chủ thể được quy định tại Điều 392 của Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện hành mới phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm xâm phạm nghĩa vụ và trách nhiệm của quân nhân nói chung và tội phạm ngược đãi tù binh nói riêng.
3. Khung hình phạt của Tội ngược đãi tù binh, hàng binh:
Tội ngược đãi tù binh, hàng binh theo Điều 420 Bộ luật Hình sự 2015 quy định 01 khung hình phạt duy nhất: Phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Điều này thể hiện rằng tội ngược đãi tù binh, hàng binh được xếp vào loại tội ít nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự năm 2015 (tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là đến 3 năm tù).
Khung hình phạt này phản ánh chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta. Pháp luật không chỉ hướng đến trừng phạt mà còn nhằm giáo dục, răn đe, phòng ngừa trong phạm vi quân đội. Việc áp dụng cải tạo không giam giữ cho phép tòa án linh hoạt trong xử lý, ưu tiên biện pháp giáo dục, kỷ luật và cải tạo tại đơn vị quân đội thay vì tước tự do trong mọi trường hợp.
Hành vi ngược đãi tù binh, hàng binh xâm phạm nghiêm trọng đến quy tắc nhân đạo trong chiến tranh, vi phạm Công ước Genève 1949 mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên trong thực tế, hành vi này thường xảy ra trong phạm vi hẹp và mang tính cá nhân, không có tổ chức và không kéo dài nên mức hình phạt được quy định thấp nhằm phù hợp với mức độ nguy hiểm thực tế và khả năng cải tạo người phạm tội.
4. Phân biệt với Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh:
Tiêu chí | Tội khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh (Điều 400 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội ngược đãi tù binh, hàng binh (Điều 420 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khách thể bị xâm phạm | Xâm phạm đến nghĩa vụ trung thành, kỷ luật chiến đấu và bảo vệ bí mật công tác quân sự của quân nhân khi bị địch bắt làm tù binh. | Xâm phạm đến nguyên tắc nhân đạo trong chiến tranh, cụ thể là quyền được đối xử nhân đạo của tù binh, hàng binh theo Công ước quốc tế. |
Đối tượng tác động | Đối tượng bị tác động là bí mật quân sự, bí mật nhà nước, lợi ích quốc phòng và an ninh quốc gia. | Đối tượng bị tác động là con người – tù binh hoặc hàng binh bị giam giữ trong chiến tranh. |
Chủ thể của tội phạm | Quân nhân, sĩ quan hoặc người phối thuộc với quân đội bị địch bắt làm tù binh nhưng phản bội, khai báo hoặc hợp tác với địch. | Người có trách nhiệm quản lý, giam giữ hoặc tiếp xúc với tù binh, hàng binh (thường là quân nhân) có hành vi ngược đãi, hành hạ họ. |
Hành vi khách quan | Gồm các hành vi:
| Gồm các hành vi:
|
Mức độ nguy hiểm cho xã hội | Rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, vì hành vi này phản bội Tổ quốc, tiết lộ bí mật; giúp sức cho địch gây tổn hại trực tiếp đến quốc phòng, an ninh. | Ít nghiêm trọng, chủ yếu xâm phạm đạo đức, nhân đạo và hình ảnh quân đội, không trực tiếp ảnh hưởng đến bí mật quốc phòng. |
Lỗi của người phạm tội | Cố ý trực tiếp, thường có động cơ hèn nhát, phản bội hoặc vụ lợi nhằm được đối xử ưu đãi từ địch. | Cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp, xuất phát từ tính tàn bạo, thiếu kỷ luật, coi thường pháp luật hoặc mất nhân tính trong chiến tranh. |
Hậu quả pháp lý | Hậu quả rất nghiêm trọng: Làm lộ bí mật quốc phòng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả chiến đấu, gây thiệt hại cho quốc gia, quân đội. | Hậu quả chủ yếu là làm tổn hại thân thể, tinh thần hoặc danh dự của tù binh, hàng binh, ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín quân đội. |
Hình phạt chính | Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 07 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. | Phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. |
THAM KHẢO THÊM: