Khi nhà nước thu hồi đất mà trên đó cây trồng, thường làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân, tác động xấu đến một bộ phận cộng đồng do mất nghề nghiệp khi không còn đất sản xuất và tài sản gắn liền với đất trong đó có cây trồng. Vậy mức bồi thường với các loại cây trồng như thế nào? Và trồng cây gì thì được đền bù cao nhất khi nhà nước thu hồi đất?
Mục lục bài viết
1. Quy định của pháp luật về đền bù cây trồng :
1.1. Đền bù cây trồng là gì?
Đây khái niệm chỉ những cây trồng đã được người sử dụng đất trồng trước đó một khoảng thời gian nhất định, nay vì những lí do khác nhau mà nhà nước tiến hành thu hồi và đền bù cho tài sản trên đất trong đó có các loại cây trồng. Theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau mà người ta có nhiều cách phân loại cây trồng. Nhưng nhìn chung thì cây trồng đền bù có thể phân thành các nhóm sau:
+ Cây trồng hàng năm: Là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng và cho ra sản phẩm hơn một năm (01) bao gồm cây hàng năm như có thể thu hoạch hơn một năm. Thường cây lâu năm là những loài cây ăn quả như vải thiều, sầu riêng, cam, bưởi… ngoài cây ăn quả ra còn có cây công nghiệp như chè, cà phê,… cây dược liệu lâu năm như quế, đỗ trọng…
+ Cây rừng: Thực vật rừng hay cây rừng gồm tất cả các loài cây, loài dây leo, loài cỏ thuộc thực vật bậc cao có mạch phân bố trong rừng. Chúng là thành phần chính của hệ sinh thái rừng và là nguồn tài nguyên quan trọng mang lại nhiều lợi ích cho con người. Ở từng nơi, từng lúc thành phần thực vật rừng có thể thay đổi; đó là kết quả sinh trưởng phát triển của từng loài và sự thích ứng của chúng với những biến động của nhân tố ngoại cảnh. Vì vậy, thực vật rừng ở mỗi địa phương trong thời điểm nhất định không chỉ phản ánh hiện trạng tài nguyên, tính đa dạng sinh học mà còn phản ánh tình trạng môi trường rừng. Nơi lập địa khắc nghiệt thành phần thực vật thường đơn giản, chất lượng thấp; nơi lập địa tốt, ít bị tác động không những chất lượng rừng cao mà thành phần thực vật rừng cũng phong phú đa dạng.
+ Lâm sản: Là sản phẩm khai thác từ rừng gồm thực vật rừng, động vật rừng và các sinh vật rừng khác. Lâm sản gồm gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Về định nghĩa lâm sản ngoài gỗ ta còn có thể hiểu nó là bao gồm những sản phẩm không phải gỗ có nguồn gốc sinh vật được khai thác từ rừng tự nhiên, rừng trồng và có giá trị kinh tế mà lâm sản mang lại để tránh gây thiệt hại không đáng có cho người dân.
1.2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại đối với cây trồng khi nhà nước thu hồi đất:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 90 Luật Đất đai năm 2013 thì khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với cây trồng thì việc bồi thường sẽ được thực hiện cụ thể như sau:
– Đối với cây hàng năm (lúa, ngô, đậu…) thì mức bồi thường được tính theo giá trị sản lượng của vụ thu hoạch đối với cây trồng hàng năm. Theo đó, giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính bằng năng suất của vụ cao nhất trong vòng 03 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương nơi có đất bị thu hồi và giá trung bình tại thời điểm thu hồi;
– Đối với cây lâu năm (cà phê, hồ tiêu, chôm chôm), mức bồi thường đối với cây trồng trên đất được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây theo giá ở địa phương nơi có đất bị thu hồi và tại thời điểm thu hồi đất mà không bao gồm giá trị của quyền sử dụng đất;
– Đối với cây trồng chưa đến kỳ thu hoạch nhưng trước khi tiến hành thu hồi đất mà có thể di chuyển cây trồng trên đất đến địa điểm khác thì được Nhà nước bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng lại;
– Đối với cây rừng trồng có nguồn gốc từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, cây rừng tự nhiên được giao cho người sử dụng đất trồng, chăm sóc, bảo vệ, quản lý thì Nhà nước bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây.
2. Cây trồng nào được đền bù cao nhất khi Nhà nước thu hồi đất?
Đối với cây trồng trên đất, khi bồi thường được chia theo hai loại: Cây hàng năm và cây lâu năm. Mỗi loại cây này được tính toán mức bồi thường khác nhau, do giá trị thiệt hại là khác nhau, cụ thể: Mức bồi thường đối với cây hàng năm được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất, mức bồi thường đối với cây lâu năm, được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất.
BẢNG GIÁ MỨC ĐỀN BÙ CÁC LOẠI CÂY TRỒNG HIỆN HÀNH
(Đơn vị: Đồng/cây)
STT | Loại cây | Phân loại | Đơn giá |
1 | Mít ta (Mật độ 625 cây/ha) | A | 25.000 |
B | 57.000 | ||
C | 500.000 | ||
D | 700.000 | ||
E | 1.100.000 | ||
2 | Bưởi, Bòng, Phật thủ | A | 25.000 |
B | 90.000 | ||
C | 210.000 | ||
D | 420.000 | ||
E | 580.000 | ||
3 | Cam (Mật độ 500 cây/ha), Chanh, Quýt, Thanh Yên | A | 25.000 |
B | 90.000 | ||
C | 210.000 | ||
D | 320.000 | ||
E | 420.000 | ||
4 | Mận, Đào, Mơ, Dâu da, ổi, Móc thép, Dổi, Bòng bòng, Bơ
| A | 28.000 |
B | 48.000 | ||
C | 90.000 | ||
D | 120.000 | ||
E | 180.000 | ||
5 | Nhãn, Vải, Chôm chôm, Bồ quân (Nụ quân), Hồng | A | 41.000 |
B | 85.000 | ||
C | 222.000 | ||
D | 373.000 | ||
E | 450.000 | ||
6 | Táo, Hồng xiêm | A | 15.000 |
B | 30.000 | ||
C | 120.000 | ||
D | 180.000 | ||
E | 300.000 | ||
7 | Vú sữa, Trứng gà, Mắc cọp
| A | 25.000 |
B | 50.000 | ||
C | 120.000 | ||
D | 240.000 | ||
E | 360.000 | ||
8 | Na, Lê, Lựu, Mãng cầu
| A | 20.000 |
B | 36.000 | ||
C | 99.000 | ||
D | 199.000 | ||
E | 350.000 | ||
9 | Thanh long | A | 20.000 |
B | 36.000 | ||
C | 99.000 | ||
D | 150.000 | ||
E | 210.000 | ||
10 | Núc nác, Bứa | A | 10.000 |
B | 18.000 | ||
C | 65.000 | ||
D | 108.000 | ||
E | 160.000 | ||
11 | Thị, Muỗm, Quéo, Xoài, Cóc
| A | 25.000 |
B | 180.000 | ||
C | 310.000 | ||
D | 400.000 | ||
E | 570.000 | ||
12 | Chay, Sấu, Khế, Chám, Dọc, Nhót | A | 20.000 |
B | 30.000 | ||
C | 90.000 | ||
D | 180.000 | ||
E | 250.000 | ||
13 | Trầu, Sở, Lai
| A | 13.000 |
B | 66.000 | ||
C | 200.000 | ||
D | 266.000 | ||
E | 300.000 | ||
14 | Dừa | A | 43.000 |
B | 102.000 | ||
C | 388.000 | ||
D | 538.000 | ||
E | 457.000 | ||
15 | Bồ kết
| A | 8.500 |
B | 27.500 | ||
C | 156.000 | ||
D | 261.000 | ||
E | 222.000 | ||
16 | Cau ăn quả | A | 28.500 |
B | 49.500 | ||
C | 184.000 | ||
D | 295.000 | ||
E | 251.000 | ||
17 | Dứa | A | 5.500 |
B | 8.500 | ||
18 | Gấc | A | 3.500 |
B | 37.000 | ||
19 | Chuối | A | 10.000 |
B | 60000 | ||
20 | Đu đủ | A | 15.000 |
B | 45.000 | ||
21 | Chè | A | 1.500 |
B | 16.000 | ||
C | 36.000 | ||
22 | Dâu tây (Mật độ trồng khoảng 40.000-45.000 cây/ha) | A | 6.500 |
B | 11.000 | ||
23 | Dâu ăn quả (Mật độ trồng khoảng 5.000 cây/ha 1,5 m x 1,2 m). | A | 5.500
|
B | 9.000 | ||
C | 12.000 | ||
24 | Cây Dâu lấy lá cho tằm ăn (Mật độ 40.000 – 50.000 cây/ha) | A | 1.500 |
B | 2.000 | ||
C | 5.000 | ||
25 | Trầu | A | 6.500 |
B | 38.000 | ||
26 | Mía tím | Chưa đến kỳ thu hoạch (< 6 tháng) | 12.000 |
Đã đến kỳ thu hoạch | 24.000 | ||
Mía nguyên liệu (mía đường) (Lưu gốc) | Năm thứ 1, năm thứ 2
| 8.500
| |
Năm thứ 3 | 9.200 | ||
27 | Cà phê (mật độ 1.300 cây/ha) | Mới trồng | 6.000 |
Chăm sóc năm 1 | 20.000 | ||
Chăm sóc năm 2 | 30.000 | ||
Chăm sóc năm 3 | 50.000 | ||
Đã thu hoạch | 100.000 | ||
28 | Cây quế | Đường kính gốc < 5cm | 20.000 |
Đường kinh gốc >= 5 – 10cm | 80.000 | ||
Đường kính gốc > 10 – 20cm | 160.000 | ||
Đường kính gốc > 20cm | 200.000 | ||
29 | Cây thông nhựa (Mật độ tối đa 1000 cây/ha) | Đường kính < 2cm | 10.000 |
Đường kính gốc 2 – 5cm | 30.000 | ||
Đường kính gốc > 5 – 10cm | 45.000 | ||
Đường kính gốc > 10 – 20cm | 130.000 | ||
Đường kính gốc > 20 – 30cm | 180.000 | ||
Đường kính gốc > 30 – 40cm | 230.000 | ||
Đường kính gốc > 40 cm | 280.000 | ||
30 | Cây cao su (mật độ thời kỳ XDCB 555 cây/1 ha, thời kinh doanh 500 cây ha) | Năm 1 đến 9 | 88.000 – 142.000 |
31 | Cây cọ phèn búp đỏ (nuôi cánh kiến) | Năm 1 đến > 7 năm | 13.500 – 96.000 |
32 | Cây hoa hồi, hoa hòe | Cây con | 5.000 |
Còn nhỏ, di chuyển được | 15.000 | ||
Chưa thu hoạch, không di chuyển được | 50.000 | ||
Đã thu hoạch (dưới 5 năm) | 120.000 | ||
Đã thu hoạch (trên 5 năm) | 180.000 | ||
33 | Chanh leo | Chưa ra quả | 12.000 |
Đã có quả chưa thu hoạch | 30.000 | ||
34 | Nho | A | 60.000 |
B | 140.000 | ||
C | 250.000 |
Chú thích:
– Loại A: Cây chưa có quả nhưng có thể di chuyển được;
– Loại B: Cây chưa có quả nhưng không thể di chuyển được;
– Loại C: Cây có quả đến 3 năm;
– Loại D: Cây có quả từ 4 – 6 năm;
– Loại E: Cây có quả từ năm thứ 7 trở đi.
Như vậy, mức bồi thường đối với các loại cây trồng cao hay thấp phụ thuộc vào số tuổi thọ, năm chăm sóc và vun trồng đối với giống cây đó. Có thể nhìn nhận rằng, các loại cây lâu năm là giống cây được đền bù với mức giá cao nhất.
3. Điều kiện cây trồng được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất:
Điều 88 Luật Đất đai năm 2013 thì nhà nước sẽ tiến hành bồi thường về đất và tài sản trên đất theo nguyên tắc nhất định. Theo đó, để được nhà nước bồi thường thì cây trồng phải đáp ứng được các điều kiện như sau:
Thứ nhất, cây trồng được tạo lập hợp pháp. Căn cứ Điều 6 và Điều 92 Luật Đất đai năm 2013 thì cây trồng được coi là hợp pháp khi đáp ứng được 3 yếu tố, bao gồm:
– Cây được trồng trên đất được sử dụng đất đúng mục đích;
– Cây được trồng trước khi có kế hoạch, quyết định thu hồi đất;
– Đúng quy hoạch, đúng kế hoạch sử dụng đất của cấp huyện.
Thứ hai, cây trồng đó bị thiệt hại do Nhà nước thu hồi đất, hay nói cách khác, hoạt động thu hồi chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại cho cây trồng, thiệt hại là hậu quả trực tiếp của hoạt động thu hồi, hai vấn đề này có mối quan hệ nhân quả với nhau.
4. Một số hạn chế của pháp luật về chế định bồi thường cây trồng:
Trong thực tiễn thi hành, việc xác định giá trị cây trồng hàng năm để tính toán trong công tác bồi thường tương đối rõ ràng, không phức tạp vì chu kỳ sản xuất ngắn, giá trị bồi thường không lớn. Tuy nhiên, việc xác định giá trị đối với vườn cây lâu năm là vấn đề phức tạp hơn và thường không nhất quán ở các địa phương. Cụ thể, chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra các tiêu chí để xác định giá trị vườn cây ở các địa phương.
Ví dụ: Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đưa ra tiêu chí để xác định giá trị bồi thường đối với cây lâu năm (cây cà phê) là số lượng cây trên một đơn vị diện tích, theo mật độ trồng theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh. Trong khi đó, ở địa phương khác như Đăk Lăk, Ủy ban nhân dân tỉnh đưa ra hai chỉ tiêu kết hợp cụ thể đối với cây cà phê, đó là chỉ tiêu sinh trưởng và năng suất dự kiến để phân thành các loại cây, từ đó đưa ra đơn giá đồng/cây trồng. Như vậy, với tiêu chí đưa ra như Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thì đã chưa tính đến sự lựa chọn hệ canh tác phù hợp để phát huy hiệu quả trên một đơn vị diện tích (chẳng hạn trên thực tế người dân có thể trồng xen kẽ các loại cây để tận dụng hiệu quả sử dụng đất như mô hình cà phê – tiêu, hoặc cà phê – sầu riêng). Còn đối với tiêu chí như Ủy ban nhân dân tỉnh Đắc lăk đưa ra thì cùng một đơn vị diện tích, nhưng người sử dụng đất trồng với mật độ khác nhau (ví dụ như trồng cà phê với mật độ 3x3m hoặc 3×2,5m, thì số lượng cây trồng trên một đơn vị diện tích sẽ khác nhau, và đương nhiên giá trị bồi thường sẽ khác nhau. Dĩ nhiên, với việc trồng mật độ dày, người sử dụng đất sẽ nhận giá trị bồi thường cao hơn so với việc trồng mật độ thưa hơn, như vậy sẽ không khuyến khích người sử dụng đất trồng cây với mức độ hợp lý để cây trồng phát triển tốt. mà thực tế người dân sẽ tranh thủ trồng xen nhiều loại cây, trồng với mật độ dày, miễn là được nhiều cây để được nhận tiền bồi thường nhiều. Chính vì vậy, việc xác định một tiêu chí cụ thể hơn cho việc xác định giá trị bồi thường đối với tài sản là cây lâu năm, như việc quy định về mật độ cây trồng, hệ canh tác hợp lý đối với các loại cây trồng cho phù hợp với đặc tính sinh trưởng của cây trồng; đồng thời phải tính đúng, tính đủ để bù đắp trọn vẹn những chi phí và công sức mà người nông dân đã bỏ ra là điều hết sức cần thiết khi thu hồi đất. Những quy định này cần phải được ghi nhận trong văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, làm căn cứ pháp lý được áp dụng thống nhất trong cả nước để các địa phương áp dụng nhất quán, tạo nên sự công bằng, phù hợp với thực tế.
Vì lí do bồi thường về tài sản trên đất thấp như đã trình bày ở trên, nên trong thực tế người dân thường có nhiều chiêu thức “lách luật” để có được mức bồi thường cao hơn so với quy định hiện hành như: Khi biết chắc chắn đất nông nghiệp mà mình đang sử dụng nằm trong quy hoạch bị thu hồi, người dân thường phá bỏ những cây trồng hàng năm với giá trị kinh tế thấp – theo đó giá bồi thường của Nhà nước cũng thấp để trồng các loại cây lâu năm có kinh tế và giá trị bồi thường cao hơn.
Hiện tượng này không xa lạ gì qua hàng loạt các trường hợp người dân ở khu vực Mỹ Đình hay ở xã Cổ Nhuế đã làm trước đây khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trồng rau màu, trồng lúa để xây dựng sân vận động quốc gia Mỹ Đình và thực hiện khu đô thị Nam Cường. Hoặc tinh vi hơn, người dân tạo thêm mới những tài sản trên đất sau khi đã có quy hoạch phê duyệt chi tiết hoặc đã có chủ trương thu hồi đất được công bố để nhằm tới việc khi Nhà nước thu hồi đất họ sẽ được bồi thường về tài sản trên đất và yêu cầu Nhà nước hỗ trợ. Điển hình nữa có thể kể đến, là hiện tượng người dân ở khu vực giải tỏa để xây dựng khu kinh tế lọc dầu Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi đã tạo ra hơn 3000 ngôi mộ giả chỉ sau một đêm để đòi Nhà nước bồi thường…
Với những thực tiễn nhạy cảm và phức tạp nêu trên, thiết nghĩ, nếu không có sự quản lí và kiểm soát chặt chẽ, với tinh thần làm việc công tâm, trung thực và khách quan của chính quyền địa phương thì vấn đề bồi thường tài sản trên đất cũng sẽ không đảm bảo được sự công bằng và hợp lí.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Luật Đất đai năm 2013.