Hiện việc phân loại các dạng tranh chấp đất đai mang tính tương đối. Hiện thực tế tại Việt Nam có các trường hợp, các dạng tranh chấp đất đai thường gặp như sau:
Mục lục bài viết
- 1 1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất:
- 1.1 1.1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ thừa kế:
- 1.2 1.2. Tranh chấp quyền sử dụng đất khi quan hệ hôn giữa vợ và chồng chấm dứt:
- 1.3 1.3. Tranh chấp về ranh giới đất:
- 1.4 1.4. Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành chính:
- 1.5 1.5. Tranh chấp về quyền sử dụng đất trong những giai đoạn trước đây mà qua các cuộc điều chỉnh ruộng đất đã được chia cấp cho người khác:
- 1.6 1.6. Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ:
- 1.7 1.7. Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng đất khác với nhân dân địa phương:
- 2 2. Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất:
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất:
Tranh chấp về quyền sử dụng đất là những tranh chấp giữa các bên với nhau về việc ai là người có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất. Loại tranh chấp này sẽ thường do một bên tự ý thay đổi hoặc do cả hai bên không xác định được với nhau. Dạng tranh chấp này thường sẽ phải kể đến một số loại tranh chấp phổ biến như:
1.1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ thừa kế:
Đây là dạng tranh chấp do người có quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chết mà không để lại di chúc hoặc người này có để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật và những người được hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hoặc là thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp.
1.2. Tranh chấp quyền sử dụng đất khi quan hệ hôn giữa vợ và chồng chấm dứt:
Đây là trường hợp tranh chấp đất hoặc tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi mà vợ chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc là đất để ở. Hoặc cũng có thể là tranh chấp đất đai giữa một bên ly hôn với hộ gia đình vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi mà bố mẹ cho con đất, đến khi con ly hôn thì cha mẹ đòi lại.
1.3. Tranh chấp về ranh giới đất:
Loại tranh chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hoặc hai bên không xác định được với nhau về ranh giới đất, một số trường hợp còn chiếm luôn diện tích đất của người khác. Những trường hợp tranh chấp này thường hay xảy ra do ranh giới đất giữa những người sử dụng đất liền kề không rõ ràng, đất này thường được sang nhượng nhiều lần, bàn giao không rõ ràng. Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới đất xảy ra nhiều khi là do lỗi của các cơ quan nhà nước, đó là khi cấp đất, cơ quan chức năng thực hiện cấp đất có ghi diện tích, nhưng không đo đạc cụ thể khi giao đất mà chỉ căn cứ vào giấy cấp đất và đơn kê khai diện tích của các đương sự. Sau này khi đương sự đo lại thấy diện tích đất ít hơn so với quyết định cấp đất cũng như trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có một phần diện tích chồng lấn lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa những hộ liền kề nhau. Khi giải quyết tranh chấp, những cơ quan có thẩm quyền phải xác định phần đất tranh chấp đó là thuộc quyền sử dụng của ai.
1.4. Tranh chấp về quyền sử dụng đất có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành chính:
Loại tranh chấp này thường xảy ra giữa người ở hai tỉnh, hai huyện, hai xã với nhau, tập trung ở các nơi có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng mà có địa giới không rõ ràng, không có mốc giới nhưng lại là vị trí quan trọng, ở những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý. Cùng với việc thực hiện chia tách các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tương đối nhiều.
1.5. Tranh chấp về quyền sử dụng đất trong những giai đoạn trước đây mà qua các cuộc điều chỉnh ruộng đất đã được chia cấp cho người khác:
Sau cải cách ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đặc biệt là từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và những tư liệu sản xuất của nông dân được tập trung vào hợp tác xã. Đến khi mà thực hiện Nghị quyết Trung ương 10/TW năm 1988, đất đai được phân chia đến các hộ gia đình, cá nhân để sản xuất. Do việc phân chia đất đai không hợp lý của một số cán bộ xã, huyện đã làm sai như thực hiện chia đất sản xuất cho những người không phải là nông dân để rồi những người này đem bán, cho thuê, trong khi đó những người nông dân không có đất sản xuất, canh tác. Một số hộ thực hiện chính sách “nhường cơm sẻ áo” của Nhà nước trong những năm từ 1981 – 1986 đã nhường đất cho những người khác sử dụng, nay đòi lại đòi lại. Ở miền Nam, Nhà nước tiến hành thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà cửa, tư liệu sản xuất của các địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà cửa, đất đai cho người khác sử dụng, và đến nay, do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại những người mà đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra, một số người đã bỏ đi nơi khác hoặc ra nước ngoài sinh sống, nay trở về đòi lại đất đai, các tài sản trước đây đã được giao cho người khác quản lý, sử dụng.
1.6. Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ:
Dạng tranh chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở nhờ. Có những vụ cho mượn, thuê gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây vài chục năm. Nhiều trường hợp đã không làm hợp đồng, chỉ giao kết bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ hoặc là đã hết hạn hợp đồng hoặc đòi lại, bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng các công trình, nhà ở kiên cố, một số có tên trong sổ địa chính hoặc đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì việc tranh chấp lại càng trở nên phức tạp, dẫn đến việc người dân khiếu kiện các cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
1.7. Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng đất khác với nhân dân địa phương:
Do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình trạng những nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm một lượng lớn đất đai, không sử dụng được hết để đất bỏ hoang hoặc cho những người dân sử dụng theo hình thức phát canh, thu tô. Mặt khác, nhiều các nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội quản lý đất đai lỏng lẻo đã dẫn đến tình trạng người dân chiếm đất để sử dụng. Do đó cũng dẫn đến tranh chấp đất đai.
2. Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất:
Dạng tranh chấp này thường xảy ra khi các chủ thể có những giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất. Thông thường có các loại tranh chấp sau:
2.1. Tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất:
Tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất là sự mâu thuẫn, xung đột xảy ra giữa các bên tham gia hợp đồng. Về bản chất thì đây là sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa bên chuyển quyền sử dụng đất với bên nhận chuyển quyền sử dụng đất khi giao kết và thực hiện hợp đồng. Những tranh chấp liên quan đến hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất có thể kể đến như:
– Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị làm giả;
– Giấy tờ không đầy đủ: ví dụ như thửa đất chưa có đủ giấy tờ theo yêu cầu của Luật Đất đai hoặc phần diện tích đất quá nhỏ không thể tách thửa được cũng là một loại tranh chấp phổ biến;
– Chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình mà không có sự chấp thuận của tất cả những thành viên đồng sử dụng;
– Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất không được công chứng, chứng thực;
– Bên nhận chuyển quyền sử dụng đất không tiếp tục thanh toán tiền cho bên chuyển quyền sử dụng đất sau khi đất đã sang tên cho bên nhận chuyển quyền;
– Tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất xuất phát từ việc người sử dụng đất chuyển quyền sử dụng đất bằng giấy viết tay cùng một lúc cho nhiều bên;
– Ngoài ra, trong trường hợp nếu việc chuyển quyền sử dụng đất giữa hai bên ảnh hưởng tới các quyền và lợi ích của người thứ ba, thì người thứ ba hoàn toàn có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất đã được ký kết nhằm để đảm bảo về quyền lợi của mình. Do đó, người thứ ba cũng có thể là các chủ thể trong quan hệ tranh chấp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và có một vai trò liên quan trực tiếp tới giá trị pháp lý của hợp đồng này.
2.2. Tranh chấp về việc bồi thường giải phóng mặt bằng:
Trong tranh chấp loại này chủ yếu là khiếu kiện về giá đất đền bù, diện tích đất được đền bù, giá cả của đất tái định cư và đền bù không đúng người, giải tỏa quá mức quy định nhằm để chừa đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc thực hiện quy hoạch mở mang đường sá, đô thị quá lớn đẫn đến việc tranh chấp về trường hợp này rất gay gắt, phức tạp và có nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện.
Văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết:
– Luật Đất đai 2013.