Thương mại điện tử là loại hình thương mại mới xuất hiện cuối thế kỷ XX và phát triển ngày càng mạnh mẽ cho đến nay. Thương mại điện tử mang tới nhiều lợi ích phát triển kinh tế - xã hội. Cùng tìm hiểu thương mại điện tử là gì? Các đặc điểm của thương mại điện tử?
Mục lục bài viết
1. Thương mại điện tử là gì?
Thương mại là hành vi đặc thù của con người trong quá trình phát triển xã hội, văn minh nhân loại. Các hành vi thương mại tồn tại qua suốt các thời kỳ lịch sử với nhiều hình thức cũng như nội hàm của chính nó thay đổi theo để phù hợp tiến trình phát triển cũng như nhận thức của con người về thương mại. Giao dịch thương mại và các yếu tố ảnh hưởng đến giao dịch thương mại vô cùng đa dạng bởi chính sự hiểu biết của con người trong bối cảnh của xã hội đương thời, nhất là trong thế kỷ XXI, thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin, một mô thức giao dịch thương mại vô cùng thuận tiện ngày càng được phổ biến rộng khắp và hơn hết, được đón nhận như một sự tất yếu của sự phát triển thương mại của cả thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng đó là thương mại điện tử.
Hành vi thương mại theo như pháp luật của Pháp theo bản chất được phân định thành hai loại: Thứ nhất, các hành vi được coi là hành vi thương mại ngay cả khi chúng được thực hiện một cách riêng rẽ; Thứ hai các hành vi chỉ được coi là hành vi thương mại trong trường hợp do thương nhân thực hiện. Các hành vi thương mại hình thức là các hành vi được coi là hành vi thương mại ngay cả khi chúng được những người không phải là thương nhân thực hiện. Các hành vi thương mại phụ thuộc là các hành vi phụ thuộc vào hoạt động thương mại hoặc các thương gia như các trái vụ giữa các thương nhân với nhau
Có thể thấy, hành vi thương mại được nhận diện từ hai phương diện: Đầu tiên, do bản chất của hành vi đó với mục đích sinh lời; thứ hai, do chủ thể tiến hành hành vi đó là thương nhân. Nhưng thương mại điện tử lại có những đặc thù riêng bởi nó gắn các hành vi thương mại truyền thống với phương thức giao dịch mới: “điện tử”.
2. Các quan điểm về thương mại điện tử:
Dưới góc nhìn công nghệ: Sự lý giải về hình thức giao dịch của thương mại điện tử đều gắn liền các hành vi thương mại truyền thống với phương thức giao dịch mới xuất hiện là “điện tử” và điều này tạo nên các thách thức mới phi truyền thống khi mà thuật ngữ “điện tử” vẫn còn đang được định hình về cả hình thức và nội hàm. Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào trong hoạt động thương mại chính là sự khác biệt giữa thương mại truyền thống và thương mại điện tử. Có lẽ chính vì thế mà sự phát triển của CNTT sẽ thúc đẩy thương mại điện tử phát triển nhanh chóng, ngược lại, sự phát triển của thương mại điện tử cũng thúc đẩy và gợi mở nhiều lĩnh vực của CNTT và truyền thông (ICT Information and Communication Technology) như phần cứng và phần mềm chuyên cho các ứng dụng thương mại điện tử, dịch vụ thanh toán cho thương mại điện tử vv…nhưng điều này lại có thể dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động thương mại khi mà bộ máy quản lý hành chính vốn được thiết lập để tạo nên sự ổn định có thể không bắt kịp với sự biến đổi của công nghệ thông tin trong thời đại 4.0.
Dưới góc nhìn kinh tế, thương mại điện tử là quá trình mua, bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ và thông tin thông qua mạng máy tính, bao gồm mạng Internet. Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử đơn giản chỉ là việc tiến hành các hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử và mạng viễn thông. Phương tiện điện tử và mạng viễn thông sử dụng phổ biến trong thương mại điện tử là điện thoại, tivi, máy fax, mạng truyền hình, mạng internet, mạng intranet, mạng extranet... trong đó máy tính và mạng internet cùng các thiết bị thông minh đi động là được sử dụng nhiều nhất để tiến hành các hoạt động thương mại điện tử vì nó có khả năng tự động hóa cao các giao dịch. Theo nghĩa rộng, thương mại điện tử không chỉ dừng lại ở việc mua bán hàng hóa và dịch vụ, mà nó còn mở rộng ra cả về quy mô và lĩnh vực ứng dụng. Xuất phát từ thực tiễn nảy sinh trong quá trình NTD tìm kiếm thông tin sản phẩm trên các trang thương mại điện tử mà các nhà lập pháp đã đặt ra các khái niệm về thương mại điện tử chung nhất để đáp ứng yêu cầu chất lượng sản phẩm đến tay NTD.
Tổ chức Thương mại thế giới WTO cho rằng: “thương mại điện tử là một lĩnh vực thương mại mới liên quan đến thiết lập giao dịch điện tử hàng hóa xuyên biên giới.
Hiệp hội thương mại điện tử (AEC – Association for Electronic Commerce), và một số tổ chức khác như Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD–United Nation Conference on Trade and Development) cho rằng:
– Dưới góc độ doanh nghiệp, thương mại điện tử bao gồm các hoạt động của doanh nghiệp, theo chiều ngang: “thương mại điện tử là việc thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh bao gồm tiếp thị (quảng cáo chào hàng – marketing), bán hàng, phân phối và thanh toán thông qua các phương tiện điện tử”. Khái niệm này đã đề cập đến toàn bộ hoạt động kinh doanh, chứ không chỉ giới hạn ở riêng mua và bán, toàn bộ các hoạt động kinh doanh này được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử. Khái niệm này được viết tắt bởi bốn chữ Tiếp thị – Bán hàng – Phân phối – Thanh toán (MSDP), trong đó:
– Marketing (có web, hoặc xúc tiến thương mại qua internet) S – Sales (có web, có hỗ trợ chức năng giao dịch, ký kết hợp đồng) D – Distribution (Phân phối sản phẩm số hóa qua mạng) P – Payment (Thanh toán qua mạng hoặc thông qua ngân hàng)
Như vậy, đối với doanh nghiệp, khi sử dụng các phương tiện điện tử và mạng viễn thông (internet) vào trong các hoạt động kinh doanh cơ bản như marketing, bán hàng, phân phối, thanh toán thì được coi là tham gia thương mại điện tử.
– Dưới góc độ quản lý nhà nước, thương mại điện tử bao gồm các lĩnh vực Cơ sở hạ tầng; Thông điệp dữ liệu; Các quy tắc cơ bản; Các quy tắc riêng; Điều chỉnh từng lĩnh vực chuyên sâu; Các ứng dụng thương mại điện tử (IMBSA):
– I – Infrastructure: Cơ sở hạ tầng “Công nghệ thông tin” và truyền thông là yêu cầu đầu tiên để phát triển thương mại điện tử.
– M – Message: Liên quan đến “thông điệp dữ liệu”. Thông điệp chính là tất cả các loại thông tin được truyền tải qua mạng trong thương mại điện tử. Ví dụ như hợp đồng điện tử, chào hàng, hỏi hàng qua mạng, chứng từ thanh toán điện tử... đều được coi là thông điệp, chính xác hơn là “thông điệp dữ liệu”.
– B – Basic Rules: Các quy tắc cơ bản điều chỉnh chung về thương mại điện tử: chính là các luật điều chỉnh các lĩnh vực liên quan đến thương mại điện tử trong một nước hoặc khu vực và quốc tế như các quy định về thương mại của WTO, quy định về sở hữu trí tuệ của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới WIPO.
– S – Sectoral Rules/ Specific Rules: Các quy tắc riêng, điều chỉnh từng lĩnh vực chuyên sâu của thương mại điện tử như: chứng thực điện tử, chữ ký điện tử, Ngân hàng điện tử (thanh toán điện tử).
– A – Applications: Được hiểu là các ứng dụng thương mại điện tử, hay các mô hình kinh doanh thương mại điện tử cần được điều chỉnh, cũng như đầu tư, khuyến khích để phát triển, trên cơ sở đã giải quyết được 4 vấn đề trên.
Như vậy, tác giả cho rằng thương mại điện tử là việc tiến hành hoạt động thương mại kinh doanh hàng hóa hoặc/và cung cấp dịch vụ giữa các bên trong quan hệ giao dịch thông qua các phương tiện điện tử như máy tính, ứng dụng điện thoại, vv. Các phương tiện điện tử này phát triển cùng với tiến bộ của CNTT cả trong lĩnh vực phần cứng và phần mềm chuyên dụng, trong đó máy tính và cùng các thiết bị thông minh đi động có kết nối mạng internet tại thời điểm hiện tại được sử dụng nhiều nhất để tiến hành các hoạt động thương mại điện tử.
3. Đặc điểm của thương mại điện tử:
Thương mại điện tử với tư cách là một mô thức tiến hành hoạt động thương mại mới xuất hiện và phát triển sau kế thừa các đặc tính chung của các loại hình thương mại truyền thống khác như tự do ý chí, năng lực chủ thể vv. Tuy nhiên, thương mại điện tử lại có những đặc điểm khác biệt cơ bản do sự phát triển của thương mại điện tử gắn liền và tác động qua lại với sự phát triển của CNTT và truyền thông (ICT).
Trong hoạt động thương mại truyền thống, các bên trong giao dịch phải có sự liên hệ trực tiếp để tiến hành giao dịch và ký kết hợp đồng. Hình thức giao dịch vẫn tồn tại thông qua các yếu tố vật lý hiện hữu trên thực tế một cách trực tiếp trong khi đối với các giao dịch thương mại điện tử, việc giao kết hợp đồng được tiến hành gián tiếp thông qua mạng viễn thông. Theo hình thức giao dịch này, dữ liệu của một phần hoặc toàn bộ giao dịch xuất hiện dưới dạng điện tử và được lưu trữ trong các thiết bị lưu trữ như ổ cứng, máy chủ, vv... (tồn tại hiện hữu dưới dạng vật lý). Theo sự phát triển của công nghệ số, các phương tiện điện tử ngày càng được phổ biến và mở rộng về ngoại diện, thêm vào đó là độ bao phủ của các mạng viễn thông và Internet mà giờ đây các bên tham gia vào giao dịch không phải gặp gỡ nhau trực tiếp mà vẫn có thể thực hiện được các giao dịch và lưu trữ thông tin giờ đây có thể được số hóa và đưa vào lưu tại các kho lưu trữ mềm điện toán đám mây.
Phạm vi hoạt động của thị trường trong thương mại điện tử là thị trường phi biên giới. Thông qua Internet, mọi người ở tất cả các quốc gia trên khắp toàn cầu không phải di chuyển tới bất kì địa điểm nào mà vẫn có thể tham gia vào giao dịch, thương mại điện tử xuất hiện khiến cho chủ nghĩa cô lập, chủ nghĩa bảo hộ trở nên yếu thế so với sự xuất hiện ngày càng mạnh mẽ của toàn cầu hóa. Các khái niệm về biên giới giữa các quốc gia, thị trường, dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng trở nên lu mờ với sự xuất hiện của một thị trường mới, duy nhất và không chia tách. Sự hiện hữu của nó, ngay cả khi mới trên ý tưởng: toàn cầu hóa, đã khiến cho các thực thể, thể chế kinh tế, chính trị trên khắp thế giới phải xem thương mại điện tử không còn là một hình thức thương mại đơn thuần nữa mà còn là một lĩnh vực mới về cả kinh tế, chính trị lẫn luật pháp.
Trong hoạt động thương mại điện tử phải có tối thiểu ba chủ thể tham gia. Đối với các hoạt động thương mại truyền thống, các chủ thể cơ bản là bên bán và bên mua nhưng đối với thương mại điện tử, sự tham gia của bên thứ ba là các website thương mại điện tử là không thể thiếu với tư cách là bên tạo nền tảng cho các giao dịch thương mại điện tử. Bên thứ ba này có thể là nhà cung cấp dịch vụ mạng, cơ quan bảo mật thông tin giao dịch, và cũng có thể là bên cung cấp dịch vụ thanh toán, vv...
Thương mại điện tử phụ thuộc vào trình độ CNTT và dữ liệu người dùng. Trong môi trường toàn cầu, việc tiếp cận NTD, với tư cách là bên mua, là điều tất yếu. Sự cạnh tranh trong thương mại điện tử vô cùng khốc liệt khi bên bán không phải bán cho một khu vực, một địa phương mà bán cho một thị trường toàn cầu và bên mua, với tất cả sự lựa chọn họ có, sẽ bị tiếp cận dựa trên dữ liệu người dùng ghi nhận trong suốt quá trình tham gia thương mại điện tử. Hoạt động thu thập dữ liệu người dùng này mang tính hệ thống và bắt buộc đối với người sử dụng để có thể sử dụng dịch vụ của bên cung cấp.
Như vậy, thương mại điện tử mang cả đặc điểm động và tĩnh, kế thừa các đặc tính chung của thương mại truyền thống và tiến bộ của công nghệ thông tin trong giao dịch thương mại đã được số hóa với phạm vi hoạt động toàn cầu và bị ảnh hưởng cả kinh tế, chính trị lẫn luật pháp.