Xung đột xã hội xảy ra dưới nhiều góc độ khác nhau và có nhiều cách thức giải quyết xung đột xã hội. Các phương thức giải quyết xung đột xã hội bao gồm: Các biện pháp giải quyết xung đột và các giải pháp phòng ngừa xung đột. Cùng bài viết tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm giải quyết xung đột xã hội là gì?
Giải quyết xung đột xã hội được khái niệm hóa là các phương pháp và quy trình liên quan để tạo điều kiện cho việc chấm dứt xung đột xã hội và trả thù một cách hòa bình. Các nhóm, cộng đồng trong xã hội có cam kết cố gắng giải quyết xung đột xã hội bằng cách tích cực truyền đạt thông tin về động cơ hoặc ý thức hệ xung đột của họ với những người còn lại trong nhóm. Cộng đồng của mình hoặc với bên đối địch trong xung đột (ví dụ: ý định; lý do để giữ một số niềm tin nhất định) và bằng cách tham gia vào việc thương lượng tập thể.
Các chiều hướng giải quyết thường song song với các chiều cạnh xung đột trong cách xử lý xung đột. Giải quyết bằng nhận thức là cách những bên tranh chấp hiểu và nhìn nhận xung đột, bằng niềm tin, quan điểm, sự hiểu biết và thái độ. Giải quyết bằng tình cảm là cách mà những người tranh chấp cảm nhận về xung đột, và năng lượng cảm xúc. Cách giải quyết hành vi phản ánh cách các bên tranh chấp hành động, và hành vi của họ. Cuối cùng tồn tại một loạt các phương pháp và thủ tục để giải quyết xung đột, bao gồm đàm phán, hòa giải, hòa giải – trọng tài, ngoại giao và xây dựng/tìm kiếm hòa bình một cách sáng tạo.
Thuật ngữ giải quyết xung đột xã hội cũng có thể được sử dụng thay thế cho thuật ngữ giải quyết tranh chấp, trong đó quá trình trọng tài và tố tụng có liên quan chặt chẽ. Khái niệm giải quyết xung đột xã hội có thể được coi là bao gồm việc các bên xung đột sử dụng các biện pháp phản kháng bất bạo động trong nỗ lực thúc đẩy các cách giải quyết hiệu quả.
2. Các phương thức giải quyết xung đột xã hội:
2.1. Giải quyết xung đột:
Trong quá trình quản lý và giải tỏa xung đột xã hội, việc phân loại xung đột và xác định đúng diễn biến, các giai đoạn phát triển của xung đột xã hội có ý nghĩa rất lớn. Phân loại đúng đắn hay không phụ thuộc vào năng lực quản lý xung đột, tức nhờ vào tri thức, kỹ năng và thái độ của các chủ thể xung đột và quản lý xung đột. Năng lực quản lý xung đột xã hội, như là một trình độ của văn hóa chính trị, khi nó giúp cho việc xác định kịp thời các loại hình xung đột, từ tính chất, quy mô cho đến các lĩnh vực và mức độ. Trên cơ sở đó, có thể áp dụng các phương thức quản lý, giải tỏa phù hợp. Chủ thể quản lý xung đột xã hội được coi là có năng lực, khi nhận thức được tính chất, đặc điểm của các loại hình, các quy mô của xung đột, nắm chắc diễn biến, tính chất của các giai đoạn xung đột: từ giai đoạn ngấm ngầm đến giai đoạn công khai, căng thẳng, đối đầu, không tương dung giữa các bên xung đột; có kỹ năng giải tỏa phù hợp, hiệu quả, với một thái độ khoa học, khách quan.
Các phương pháp quản lý và giải tỏa xung đột đúng, có ý nghĩa quyết định thành công của quản lý và giải tỏa xung đột xã hội. Cách biểu hiện của văn hóa trong các xung đột có tác động mạnh mẽ đến việc lựa chọn các phương thức quản lý. Chỉ có sự thấu hiểu văn hóa, chúng ta mới có thể chọn các phương thức phù hợp. Văn hóa chính trị đề cao chủ nghĩa cá nhân và văn hóa chính trị đề cao chủ nghĩa cộng đồng sẽ ảnh hưởng lớn đến cách lựa chọn phương thức quản lý xung đột. Giá trị văn hóa hiện đại, dưới tác động của chủ nghĩa duy lý, khoa học và công nghệ cao, hội nhập và bao dung văn hóa... sẽ làm nền tảng và nhân lõi cho suy nghĩ đúng và hành động hợp lý của chủ thể quản lý và giải tỏa xung đột.
Trước một hiện tượng xã hội nói chung, xung đột xã hội nói riêng, mỗi dân tộc, cộng đồng, mỗi cá nhân đều có cách ứng xử khác nhau. Trong các cách ứng xử khác nhau đó, bao giờ cũng có một cách ứng hợp lý, hợp tình, ứng xử tối ưu. Muốn có cách ứng xử tối ưu phải có được “tâm thế” để có thể quyết định hoặc đánh đổi giữa điểm mạnh và điểm yếu, giữa “được” và “mất”. Tâm thế lúc đó biểu hiện ra như các chuẩn mực văn hóa tối ưu, mang tính sáng suốt, minh triết. Nó xuyên qua những “cái có thể”, như bất hợp lý trong sự hợp lý, mất cân đối trong sự hài hòa, tạm thời trong lâu dài... để tìm ra một giải pháp mang tính sáng suốt, đúng nhất, phù hợp nhất với bối cảnh xung đột.
Như vậy, tâm thế xã hội là kết quả tổng hợp của các hoạt động sáng tạo tinh thần của con người. Tâm thế xã hội giúp định hình chuẩn mực hành vi của các chủ thể xung đột, hoặc các chủ thể tham gia quản lý, giải tỏa xung đột. Tâm thế xã hội phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh văn hóa và “tiểu văn hóa” của môi trường xã hội, nơi xung đột đang diễn ra. Trên thực tế, cùng một điều kiện vật chất, kinh tế, kỹ thuật và nguồn lực như nhau, nhưng tâm thế xã hội khác nhau đã thúc đẩy các hành động khác nhau và cho kết quả hoàn toàn khác nhau.
Cũng trên một cơ sở văn hóa nền tảng, trong cùng một bối cảnh, nhất là bối cảnh thách thức, khó khăn, phức tạp, bất lợi... người có tâm thế, thường có khả năng xây dựng cho mình nền tảng tri thức rộng, niềm tin vững chắc, bản lĩnh vững vàng, xúc cảm chân thực... để đề ra các mục tiêu bao quát, có tầm, hướng thiện, có giá trị; vạch ra các phương châm và cách thức hành động hiệu quả, thiết lập các chuẩn mực hành vi rõ ràng. Vì thế, họ dễ dàng hơn khi vượt qua khó khăn, dễ dàng hơn trong việc đạt được các mục tiêu.
Việc nắm vững tình huống xung đột, tri thức về quản lý xung đột sẽ giúp cho con người hiểu rõ công việc, nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ và đạt hiệu quả cao trong mọi nhiệm vụ quản lý xung đột đã đặt ra. Mặt khác, việc hiểu rõ con người, nắm chắc được đặc điểm tâm, sinh lý, nhu cầu, nguyện vọng của họ sẽ giúp cho người lãnh đạo có những cách tác động phù hợp nhằm tạo dựng lòng tin, gây quan hệ thiện cảm với mọi người, qua đó hạn chế tối đa các va chạm, mâu thuẫn xảy ra trong quan hệ qua lại giữa các cá nhân. Quản lý và giải tỏa xung đột xã hội là một quá trình xã hội phức tạp, đòi hỏi phải có nhiều kỹ năng thông thường, đặc biệt và đặc thù. Thái độ công bằng, khách quan, khoa học, không vụ lợi là đòi hỏi nghiêm túc đối với các chủ thể quản lý, giải tỏa xung đột.
Tác động tiêu cực về mặt tâm lý do các xung đột xã hội mang lại ảnh hưởng đến cả bên chiến thắng lẫn bên thất bại. Các kết quả của xung đột xã hội có thể để lại hậu quả trực tiếp, gián tiếp và dài hạn. Khi xung đột xảy ra, mỗi bên sẽ nỗ lực để làm thiệt hại tối đa các giá trị cả vật chất và tinh thần của đối thủ. Quá trình tìm kiếm các cách thức và phương tiện, công cụ để đạt được mục tiêu đó (hay chống lại việc đạt được mục tiêu đó của phe đối lập) có thể dẫn đến bất đồng chính kiến, ngay trong nội bộ mỗi bên, tạo ra sự chia rẽ và phân rã sức mạnh của các bên, tạo ra áp lực và ức chế lớn ngay cả khi giành chiến thắng.
Nếu một bên trong xung đột bị thất bại, bên đó sẽ bị tổn thương nặng nề về tâm lý tùy theo mục tiêu và tính chất cuộc đấu tranh. Nhưng ngay cả khi bên giành chiến thắng, các phương tiện được sử dụng trong cuộc đấu tranh, có thể để lại hậu quả cho chính người sử dụng. Kết cục của bên thất bại cũng là một điều ám ảnh đối với bên thắng lợi. Điều này đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp xung đột đã ở mức độ cao (đối đầu, không tương dung).
Dù việc sử dụng các phương tiện cưỡng chế, thậm chí bạo lực được biện minh là để phục vụ cho mục tiêu chung, nhưng hậu quả về tâm lý để lại cho cả bên thắng lợi và bên thất bại đều sẽ rất nặng nề. Những trải nghiệm đó có thể ảnh hưởng đến quan điểm, thậm chí thế giới quan của những người liên quan.
2.2. Phòng ngừa xung đột:
Phòng ngừa xung đột xã hội cũng là một cách giải quyết xung đột xã hội. Nhìn từ mọi phương diện, phòng ngừa xung đột xã hội, dĩ nhiên là đúng đắn và hữu ích hơn nhiều so với xóa bỏ hoặc giải quyết một khi xung đột xã hội đã xảy ra. Cho nên, Nhà nước và xã hội cần tập trung cả vào việc phòng ngừa xung đột xã hội xảy ra nhằm hạn chế những mâu thuẫn khi xung đột phát sinh cũng như có thời gian giải quyết các vấn đề cấp bách khác.
Phòng ngừa xung đột xã hội thể hiện ở việc tác động đến các yếu tố của nó, bao gồm: các bên tham gia xung đột, các động cơ gây nên xung đột, các khách thể của xung đột, các lực lượng và phương tiện được sử dụng để thực hiện xung đột. Do vậy, tùy thuộc vào tính chất của xung đột xã hội, hoạt động phòng ngừa có thể rất khác nhau. Những hoạt động đó là:
– Xóa bỏ các nguyên nhân của xung đột xã hội
Hình thức phòng ngừa xung đột xã hội có hiệu quả nhất là xóa bỏ các nguyên nhân dẫn đến xung đột xã hội. Hoạt động này thể hiện ở các cấp độ khác nhau.
Ở cấp độ toàn xã hội, đó là phát hiện và xóa bỏ các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội vốn đang phá vỡ tính tổ chức, tính liên kết thống nhất đa đời sống xã hội và Nhà nước. Sự trì trệ của nền kinh tế, sự cách biệt ngày càng lớn về mức sống và chất lượng cuộc sống của các nhóm xã hội lớn với các tầng lớp nhân dân, tính kém tổ chức về mặt chính trị, tính thiếu tổ chức và tính không hiệu quả của hệ thống quản lý – được coi là những nguyên nhân thường trực của những cuộc xung đột lớn nhỏ.
Để phòng ngừa được những cuộc xung đột xã hội, cần tiến hành nhất quán chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội vì lợi ích của toàn xã hội, củng cố trật tự pháp luật và pháp chế, nâng cao tinh thần văn hóa cho mọi người. Hướng phòng ngừa mà chúng ta vẫn thường gọi là “phòng ngừa chứng” này được áp dụng để phòng ngừa bất kỳ một hiện tượng tiêu cực nào, kể cả các tình huống xung đột. Để thực hiện việc phòng ngừa một cách có kế hoạch, cần phải có chiến lược được cân nhắc kỹ về phát triển xã hội còn được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ.
Mỗi cuộc xung đột thường phản ánh những mâu thuẫn và những vấn đề chung trong lĩnh vực này hoặc lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì vậy việc phân tích và lý giải các nguyên nhân khách quan làm phát sinh những trường hợp có tính phổ biến hơn và sau đó tổng hợp chúng lại có thể có vai trò quan trọng trong việc xác định những phạm vi của những vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cần được ưu tiên giải quyết. Dư luận xã hội cũng như tâm trạng của quần chúng nhân dân nhìn từ lát cắt của luật học cho phép đưa ra những kết luận để xác định hướng cần tăng cường các chế định luật cũng như cơ cấu quyền lực.
Trên bình diện phòng ngừa riêng, việc xóa bỏ các nguyên nhân của xung đột xã hội liên quan chặt chẽ đến sự tác động đến động cơ xung đột của các bên xung đột và đòi hỏi phải đưa ra được những “cơ chế” nhằm “bao vây” hoặc kìm hãm những dự định xung đột ngay từ đầu của từng bên xung đột.
– Duy trì sự hợp tác
Trước khi bước vào sự xung đột, những người là đối phương của nhau trong tương lai chí ít là có mối quan hệ trung lập và có thể là có quan hệ hợp tác với nhau. Trong những trường hợp như vậy, hướng phòng ngừa có triển vọng nhất là không phá vỡ sự hợp tác hiện có dù là sự hợp tác đó rất nhỏ mà cần phải tăng cường, củng cố và phát triển sự hợp tác hiện có. Trong số những phương pháp nhằm duy trì và phát triển sự hợp tác có thể kể đến”
+ Phương pháp hòa hợp. Phương pháp này thể hiện ở việc lôi cuốn những người có thể là đối phương trong tương lai cùng thực hiện công việc nào đó;
+ Phương pháp thân thiện. Đây là phương pháp thể hiện ở việc phải “bước vào” hay “nằm trong” tình cảnh của những người đang hợp tác cùng mình, hiểu hết những khó khăn của họ, thể hiện sự thông cảm sâu sắc và sẵn sàng giúp đỡ những người đó;
+ Phương pháp bảo vệ. Theo phương pháp này cần phải thể hiện thái độ tôn trọng đối với bên đang hợp tác cùng mình mặc dù lợi ích của mình và lợi ích của bên cùng hợp tắc tại thời điểm đó khác nhau;
+ Phương pháp bổ sung cho nhau. Phương pháp này thể hiện ở việc sử dụng những đặc điểm của người cùng đồng hành nhưng có thể là đối phương của nhau trong tương lai mà mình không có. Khi sử dụng và phát triển những đặc điểm đó có thể cũng củng cố được sự tôn trọng lẫn nhau và sự hợp tác giữa các bên và như vậy sẽ tránh được xung đột;
+ Phương pháp loại bỏ sự phân biệt đối xử về mặt xã hội. Phương pháp này không cho phép khẳng định sự khác biệt giữa những người cùng hợp tác, không cho phép khẳng định sự ưu việt của người này so với người khác (dù rằng điều đó không sai);
+ Phương pháp phân chia công trạng. Những công trạng chung, cho dù phần lớn công trạng đã đạt được đó, giả sử cứ cho thuộc về một người, thì vì mục đích mang tính đồng thuận, cùng phải được chia cho tất cả các thành viên cùng tham gia. Điều này cho phép loại bỏ mọi cảm giác tiêu cực có thể dẫn đến xung đột xã hội;
+ Phương pháp răn đe về mặt tâm lý. Phương pháp này được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Trong thực tiễn Quản lý Nhà nước, các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước sử dụng một phần của phương pháp này để phòng ngừa xung đột;
+ Phương pháp xoa dịu về mặt tâm lý. Phương pháp này thể hiện ở việc bằng nhiều cách khác nhau để duy trì tâm trạng lành mạnh cũng như những phẩm chất tích cực của con người, giảm bớt căng thẳng, kêu gọi sự thân thiện với nhau và thông qua đó, ngăn chặn xảy ra tình huống xung đột.
Những phương pháp nêu trên đây, xét đến cùng đều hướng vào duy trì và củng cố sự hợp tác. Tất cả mọi thứ đều có thể góp phần bảo vệ quan hệ giữa các bên hợp tác cùng nhau, củng cố niềm tin và tôn trọng lẫn nhau, đều có thể chống lại cuộc xung đột và khi xung đột đã xảy ra, đều có thể góp phần giải quyết nó một cách nhanh chóng.
– Pháp luật hóa xung đột xã hội để giải quyết xung đột xã hội
Pháp luật hóa được coi là một trong những cách thức cụ thể nhất được sử dụng rộng rãi để phòng ngừa cũng như giải quyết xung đột xã hội. Thực chất của pháp luật hóa xung đột xã hội là ở chỗ, sự phát triển nhanh của các xung đột xã hội đòi hỏi các cơ quan, các tổ chức với tư cách là người bảo vệ và đại diện cho lợi ích của những người tham gia xung đột xã hội, phải tăng cường nỗ lực để giải quyết và phòng ngừa xung đột xã hội.
Quá trình này dẫn đến sự trật tự hóa những đòi hỏi, kiến nghị, những mong muốn của những người trong xung đột xã hội mà trước đây vốn bị phân tán và không thống nhất. Những nỗ lực nhằm thiết lập các tổ chức trung gian gồm những đại diện thẩm quyền, trung lập, dân chủ – phi chính trị cũng được tăng cường một cách mạnh mẽ. Quá trình pháp luật hóa tạo ra khả năng trật tự hóa diễn biến của xung đột xã hội và sau đó điều chỉnh xung đột xã hội một cách dễ dàng hơn. Quá trình pháp luật hóa xung đột chính là thủ tục văn minh, hiện đại của việc điều chỉnh và khắc phục xung đột xã hội.
3. Điều chỉnh xung đột xã hội bằng quy phạm:
Cũng như bất kỳ một mối quan hệ nào giữa con người với con người, xung đột ở mức độ này hay mức độ khác được điều chỉnh bằng những quy phạm xã hội vốn khác nhau về tên gọi và nội dung: các quy phạm pháp luật; các quy tắc đạo đức, các quy phạm tôn giáo, các quy phạm chính trị .... Việc điều chỉnh xung đột xã hội bằng quy phạm làm cho hệ thống xã hội ổn định hơn, xác định trình tự, thủ tục dài hạn nhằm giải quyết xung đột xã hội và như vậy là cách tiếp cận có hiệu quả nhất đối với các hệ thống xã hội phát triển.
Việc sử dụng các quy phạm với những bản chất khác nhau để điều chỉnh xung đột xã hội có những đặc điểm vốn được quyết định bởi bản chất của các quy phạm cũng như bởi các quy phạm tồn tại trong hoàn cảnh đặc biệt. Các quy phạm đạo đức điều chỉnh hành vi của con người có ý nghĩa lớn nhất đối với việc điều chỉnh xung đột, vì rằng bất cứ cuộc xung đột nào cũng động chạm đến các quan niệm mang tính chất đạo đức như quan niệm về cái thiện và về cái ác, về hành vi đúng đắn và hành vi sai trái, về nhân phẩm, về tính công bằng và tính trật tự, về tặng thưởng và xử phạt ... . Rõ ràng, ở đây có sự tác động của các quy phạm đạo đức và bản thân xung đột xã hội cũng như những người tham gia xung đột xã hội được đánh giá về mặt đạo đức phù hợp với các quy phạm đạo đức đó.
Các quy phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với việc đánh giá xung đột bằng quy phạm. Khác với các quy phạm khác, các quy phạm pháp luật chỉ có một nghĩa, được ghi nhận trong hiến pháp, các đạo luật, các văn bản pháp luật khác và có chế tài do Nhà nước quy định. Do vậy, sự đánh giá về mặt pháp luật đối với các tiền đề cũng như đối với chính bản thân cuộc xung đột là sự đánh giá mang tính chính thức và không thể bị thay đổi cho dù dưới áp lực của một bên xung đột hoặc dưới áp lực của dư luận xã hội. Điều đó cũng hoàn toàn được áp dụng đối với cả những cuộc xung đột được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật quốc tế.
Các quy phạm mang tính chính trị không có tính chất pháp lý. Người ta thường cho rằng, cuộc xung đột quốc tế này hay cuộc xung đột quốc tế khác có thể và cần phải được giải quyết bằng các phương tiện chính trị, hòa bình. Đó là các cuộc đàm phán, các cuộc gặp của các nguyên thủ quốc gia, những nhượng bộ lẫn nhau cũng như những hành động khác không được ghi nhận trong pháp luật quốc tế. Tiếp đến là những quy tắc xử sự của các đảng phái chính trị, các phong trào và các tổ chức xã hội khác. Trong số những quy phạm chính trị, có cả những thỏa thuận bằng miệng giữa các nhà lãnh đạo các quốc gia.
Một loạt các quy tắc xử sự được hình thành trong đời sống cộng đồng xã hội để điều chỉnh loại quan hệ xã hội nhất định cũng có tính quy phạm. Chẳng hạn, để phòng ngừa xung đột các chỉ sản xuất kinh doanh hoặc các các cá nhân khi ký hợp đồng, được quyền đưa vào hợp đồng các mục đặc biệt quy định cách xử sự của các bên khi xảy ra tranh chấp. Các mục đó được thể hiện rất chi tiết. Rõ ràng, bằng việc ghi nhận vào hợp đồng các điều kiện này hay điều kiện khác, cho phép phòng ngừa được xung đột, kiềm chế cả hai bên đã ký kết hợp đồng không thực hiện những hành vi mà trước đây họ chưa nghĩ tới.
Các quy phạm xã hội có một số hướng tác động đến hành vi con người. Đó là: Thứ nhất, tác động thông tin: quy phạm đưa ra cho cá nhân hoặc nhóm cá nhân các cách xử sự mà Nhà nước mong muốn và ủng hộ, đồng thời quy định trước hậu quả đối với hành vi này hay hành vi khác; Thứ hai, tác động bằng bằng định hướng giá trị vì quy phạm ghi nhận các giá trị vốn được xã hội và Nhà nước thừa nhận; Thứ ba, có sức mạnh cưỡng chế đối với những ai vi phạm đòi hỏi của nó. Thông qua các hướng đó, các quy phạm tác động đến: Các nguyên nhân của xung đột; Các tiền đề của xung đột; Sự diễn biến và giải quyết xung đột; Hậu quả của việc chấm dứt xung đột.