Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật cho vay ngang hàng P2P lending ở Việt Nam? Một số kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật cho vay ngang hàng P2P lending ở Việt Nam?
Mục lục bài viết
- 1 1. Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật cho vay ngang hàng P2P lending ở Việt Nam:
- 2 2. Một số kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật cho vay ngang hàng P2P lending ở Việt Nam:
- 2.1 2.1. Xác định mô hình cho vay ngang hàng:
- 2.2 2.2. Thành lập cơ quan chuyên ngành quản lý P2P lending:
- 2.3 2.3. Ban hành các quy định cụ thể phù hợp cho hoạt động cho vay ngang hàng:
- 2.4 2.4. Nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của quốc gia nhằm đạt hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động cho vay ngang hàng:
- 2.5 2.5. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội và trách nhiệm phối hợp của cơ quan quản lý về hoạt động cho vay ngang hàng:
1. Những định hướng cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật cho vay ngang hàng P2P lending ở Việt Nam:
1.1. Bảo vệ trật tự kinh doanh:
Về cơ bản, hoạt động cho vay ngang hàng không thay đổi chức năng hoặc bản chất của hệ thống tài chính cơ bản và không thay đổi các yêu cầu kiểm soát rủi ro đối với ngành tài chính. Cho vay ngang hàng đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ các cá nhân và doanh nghiệp ít có cơ hội tiếp cận tín dụng từ ngân hàng. Do đó, nếu duy trì một mức độ phù hợp để đổi mới và hướng dẫn hoạt động cho vay ngang hàng đi theo hướng lành mạnh, xã hội sẽ được phục vụ tốt hơn.
P2P lending là một xu hướng thị trường hiện nay trên toàn cầu. Vì thế không thể cấm mà trước tiên cần công nhận P2P lending và cho phép hoạt động của các công ty P2P lending, song song đó sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm quản lý loại hình cho vay này để tạo ra thị trường P2P lending vừa đảm bảo phù hợp với thực tiễn, vừa phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành Do vậy, thay vì né tránh hoặc cấm đoán, các cơ quan quản lý cần chủ động nghiên cứu và định hình khung pháp lý cho hoạt động cho vay ngang hàng phát triển nhằm phát huy tối đa những lợi thế của loại hình này góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.
Đầu tiên, cần xác định và đưa ra các quy định về mô hình cho vay ngang hàng ở Việt Nam. Xác định loại cho vay ngang hàng nào là bất hợp pháp. Sau đó cần nghiên cứu các giải pháp nhằm quản lý rủi ro hệ thống, rủi ro khủng hoảng truyền thông giữa thị trường P2P lending với thị trường tài chính nhằm ngăn chặn rủi ro hệ thống, rủi ro lan truyền có thể xảy ra. Đồng thời đưa ra quy định cụ thể các nội dung nhằm đảm bảo an toàn cho thị trường chẳng hạn như các quy định về trách nhiệm, quyền lợi và vai trò của công ty P2P lending không chỉ là giới thiệu những
thành phần kinh tế với nhau mà cũng phải có chức năng kiểm soát rủi ro và quản lý rủi ro cho các bên tham gia.
Bên cạnh đó, cần làm rõ trách nhiệm, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính ngân hàng, chính quyền địa phương, các hiệp hội, nhằm quản lý có hiệu quả hoạt động P2P Lending. Cần bảo đảm đội ngũ nhân lực của cơ quan quản lý có đủ khả năng phân tích, nhận định các biến động trên thị trường. Ngoài tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tín dụng P2P lending để phòng ngừa, hạn chế các rủi ro có thể xảy ra cần phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao để tổ chức xác minh, đấu tranh với những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay ngang hàng.
Tổ chức điều tra, xác minh các dấu hiệu của tội phạm lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, rửa tiền, cho vay nặng lãi, đánh bạc qua mạng, v.v cũng như phối hợp với các ngành, các đoàn thể giải quyết, xử lý, ổn định tình hình an ninh, trật tự liên quan đến hoạt động của mô hình P2P Lending.
Như vậy, có thể bên cạnh việc tạo không gian hoạt động cho vay ngang hàng phát triển để đạt được những lợi ích do hoạt động này đem lại cho nền kinh tế thì cần thực hiện có hiệu quả công tác nắm tình hình, chủ động ứng phó, kịp thời phát hiện những dấu hiệu hoạt động của thị trường “tín dụng đen”, ngăn chặn sự đổ vỡ của các hệ thống tín dụng phi chính thức. Đồng thời xây dựng hệ thống phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hệ thống tài chính tiền tệ khi có sự xuất hiện của cho vay ngang hàng. Điều này tránh những hệ lụy lớn cho hệ thống tài chính quốc gia khi có biến cố xảy ra và bảo vệ trật tự kinh doanh cũng như nền kinh tế của Việt Nam.
1.2. Bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia:
Cho vay ngang hàng ngày càng phát triển thì các nhà đầu tư và người vay ngày càng tiếp cận với mô hình kinh doanh này nhiều hơn. Tuy nhiên để tiếp cận hoạt động cho vay ngang hàng một các hiệu quả và tích cực thì trước tiên các bên phải có sự nhận thức về hoạt động một cách thấu đáo. Vấn đề quan trọng, mấu chốt là cả nhà đầu tư và người đi vay phải hiểu rõ vai trò của P2P và nắm bắt những kiến thành phần kinh tế với nhau mà cũng phải có chức năng kiểm soát rủi ro và quản lý rủi ro cho các bên tham gia.
Bên cạnh đó, cần làm rõ trách nhiệm, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính ngân hàng, chính quyền địa phương, các hiệp hội, nhằm quản lý có hiệu quả hoạt động P2P Lending. Cần bảo đảm đội ngũ nhân lực của cơ quan quản lý có đủ khả năng phân tích, nhận định các biến động trên thị trường. Ngoài tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tín dụng P2P lending để phòng ngừa, hạn chế các rủi ro có thể xảy ra cần phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao để tổ chức xác minh, đấu tranh với những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay ngang hàng.
Tổ chức điều tra, xác minh các dấu hiệu của tội phạm lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, rửa tiền, cho vay nặng lãi, đánh bạc qua mạng, v.v cũng như phối hợp với các ngành, các đoàn thể giải quyết, xử lý, ổn định tình hình an ninh, trật tự liên quan đến hoạt động của mô hình P2P Lending.
Như vậy, có thể bên cạnh việc tạo không gian hoạt động cho vay ngang hàng phát triển để đạt được những lợi ích do hoạt động này đem lại cho nền kinh tế thì cần thực hiện có hiệu quả công tác nắm tình hình, chủ động ứng phó, kịp thời phát hiện những dấu hiệu hoạt động của thị trường tín dụng đen”, ngăn chặn sự đổ vỡ của các hệ thống tín dụng phi chính thức. Đồng thời xây dựng hệ thống phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hệ thống tài chính tiền tệ khi có sự xuất hiện của cho vay ngang hàng. Điều này tránh những hệ lụy lớn cho hệ thống tài chính quốc gia khi có biến cố xảy ra và bảo vệ trật tự kinh doanh cũng như nền kinh tế của Việt Nam.
1.3. Bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia:
Cho vay ngang hàng ngày càng phát triển thì các nhà đầu tư và người vay ngày càng tiếp cận với mô hình kinh doanh này nhiều hơn. Tuy nhiên để tiếp cận hoạt động cho vay ngang hàng một các hiệu quả và tích cực thì trước tiên các bên phải có sự nhận thức về hoạt động một cách thấu đáo. Vấn đề quan trọng, mấu chốt là cả nhà đầu tư và người đi vay phải hiểu rõ vai trò của P2P và nắm bắt những kiến thức tài chính cơ bản để có thể đầu tư, cho nhau vay và hiểu rõ nghĩa vụ của hai bên.
Tuy nhiên trong bối cảnh mô hình này còn mới mẻ tại Việt Nam lại chưa có nhiều nguồn thông tin để tiếp cận cũng nhưng chưa có các quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động này, việc làm cấp thiết hiện tại là tăng cường công tác tuyên truyền nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về các quy định của Nhà nước liên quan tới vay và cho vay cũng như những nguy cơ tiềm ẩn từ mô hình cho vay ngang hàng (P2P lending). Tăng cường phổ biến kiến thức tài chính để người dùng có trách nhiệm lựa chọn các nền tảng cho vay, khoản vay phù hợp và tránh sa vào bẫy của các biến tướng mô hình cho vay ngang hàng tốt hơn.
Đồng thời tăng cường cơ chế pháp lý bảo vệ nhà đầu tư và quyền lợi người cho vay khi tham gia mô hình P2P lending. Điều quan trọng nhất là cần phải đưa ra các quy định cụ thể để quản lý hoạt động cho vay ngang hàng. Có như vậy mới hạn chế tối đa tình trạng vi phạm pháp luật và bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia. Rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và đề xuất các biện pháp xử lý khi xảy ra tranh chấp.
Cần ràng buộc trách nhiệm của công ty P2P lending trong việc cung cấp thông tin cho các bên tham gia, những hạn chế trong việc quảng cáo, mời chào và đặc biệt không đưa ra mức cam kết về mức lãi suất đầu tư hấp dẫn, trách nhiệm dẫn vốn đến nơi sử dụng theo đúng hợp đồng giữa người cho vay và người đi vay, trách nhiệm của công ty P2P lending trong trường hợp người vay không hoàn trả được nợ. Để loại trừ những DN và cá nhân đã vướng vào nợ xấu, NHNN nên cho phép các công ty P2P tham gia truy cập thông tin tín dụng từ CIC (Trung tâm Thông tin tín dụng của NHNN).
Cho phép các doanh nghiệp cho vay ngang hàng tiếp cận hệ thống thông tin tín dụng quốc gia cũng là một việc NHNN nên xem xét, vì khai thác dữ liệu lớn là chìa khóa để doanh nghiệp cho vay ngang hàng đánh giá tín dụng, tìm cách phân tích nhu cầu và đặc điểm rủi ro của người dùng. Với thông tin xếp hạng tín dụng tốt hơn, các nền tảng cho vay ngang hàng có thể sàng lọc người vay không đủ tiêu chuẩn, từ đó bảo vệ nhà đầu tư được tốt hơn.
Như vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia mô hình P2P lending, trước hết cần phổ biến cho người dân về những thuận lợi và rủi ro mà mô hình cho vay này đem lại để từ đó nâng cao nhận thức của các bên tham gia, giúp họ có kiến thức trong việc vay vốn và có những biện pháp tự bảo vệ, người vay có thể tránh sa vào bẫy của tín dụng đen còn nhà đầu tư không bị mất trắng khi xảy ra tranh chấp. Đồng thời tăng cường các cơ chế pháp lý đưa ra các quy định cụ thể để hoạt động cho vay ngang hàng diễn ra phù hợp với thực tiễn, phù hợp với pháp luật hiện hành, đúng bản chất và an toàn cho cả nhà đầu tư và người đi vay.
1.4. Bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế:
Mô hình P2P lending có tiềm năng phát triển rất lớn, góp phần quan trọng để phát triển tài chính toàn diện. Tuy nhiên mô hình này lại tiềm ẩn những rủi ro rất lớn chính vì vậy nhiều nước đã nghiên cứu, đưa ra các khuôn khổ chính sách để giám sát và quản lý đối với hoạt động P2P lending. Xu hướng chung của thế giới là khi loại hình cho vay này phát triển, các nhà quản lý ở các nước thường cố gắng cân bằng giữa rủi ro và lợi ích, giữa tạo môi trường thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và sự lành mạnh của thị trường tài chính.
Nếu hoạt động đúng bản chất của cho vay ngang hàng trên thế giới thì sự xuất hiện của các các công ty kinh doanh dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ (Fintech) mở ra kênh tiếp cận vốn mới cho những khách hàng không đủ tiêu chuẩn vay vốn ngân hàng và giúp giảm bớt việc vay tín dụng đen. Mô hình cho vay này đơn giản hoá mọi thủ tục, thời gian xét duyệt cho vay nhanh, giao dịch trực tuyến dễ dàng, lãi suất cạnh tranh.
Việc học hỏi kinh nghiệm quản lý, giám sát hoạt động cho vay ngang hàng của các nước trên thế giới là vô cùng cần thiết để từ đó xây dựng khuôn khổ pháp lý để giảm thiểu các rủi ro cũng như tác động tiêu cực của hoạt động này đến các bên tham gia, đồng thời phát triển các mặt tích cực của mô hình kinh doanh này góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội và phát triển nền kinh tế của Việt Nam. Để hoàn thiện pháp luật cho vay ngang hàng của Việt Nam phù hợp với thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế cần nghiên cứu cụ thể cách quản lý của ở một số quốc gia có thị trường cho vay ngang hàng nổi bật như Anh, Mỹ hay cách quản lý của các quốc gia có ảnh hưởng đến thị trường cho vay ngang hàng Việt Nam như Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á.
Có thể học hỏi và rút kinh nghiệm từ các nước này để phát triển mô hình P2P lending và hoàn thiện cách thức quản lý hiệu quả cho mô hình này. Chẳng hạn như có thể học hỏi xu hướng siết chặt các quy định cho vay trên nền tảng này, nhờ đó bảo vệ tốt người cho vay và người đi vay của Mỹ hoặc xu hướng phát triển mang tính tạo điều kiện, ủng hộ cơ chế thử nghiệm và cho phép nhiều loại nền tảng để phục vụ cho các phân khúc khác nhau trên thị trường cho vay ngang hàng. Hay có thể rút ra bài học quản lý hoạt động này từ sự đổ vỡ nền tảng này từ Trung Quốc do thời gian đầu chính phủ hạn chế can thiệp vào lĩnh vực cho vay ngang hàng để thị trường này phát triển một cách tự phát đến dẫn đến những bất ổn và hệ lụy kéo dài cho nền kinh tế.
Nhìn chung kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy việc quản lý cho vay ngang hàng cần đảm bảo các yếu tố sau:
- Nền tảng này phải góp phần phát triển nền kinh tế, hỗ trợ phát triển tài chính toàn diện với việc tiếp cận nguồn tài chính an toàn;
- Cần tạo điều kiện cho người vay tiếp cận với nguồn vốn đáng tin cậy và hợp lý với các điều khoản công bằng, có khả năng phân loại được những người vay dựa trên rủi ro vỡ nợ;
- Cung cấp cho nhà đầu tư các hiểu biết chính xác về rủi ro tín dụng và các nhà đầu tư nên kiểm soát một số rủi ro để ngăn ngừa rủi ro đạo đức;
- Phía cho vay phải đủ mạnh trong thời kỳ suy thoái kinh tế để ngăn ngừa việc dùng cho vay đột ngột, lãi suất cho vay quá cao và các vấn đề bất ổn hệ thống từ sự sụp đổ của các nền tảng cho vay; các nền tảng cho vay yếu có thể ra khỏi thị trường mà không gây thiệt hại cho các nhà đầu tư hoặc gây ra thiếu hụt tài trợ cho người vay;
- Cần duy trì thị trường cạnh tranh giữa các nền tảng cho vay ngang hàng để thúc đẩy sự lựa chọn của người tiêu dùng, ngăn chặn độc quyền, hoặc thực hành độc quyền; và tránh rủi ro hệ thống của sự phụ thuộc quá mức vào một hoặc một số ít nền tảng.
Ngoài ra, thông qua kinh nghiệm quản lý mô hình cho vay ngang hàng của một số quốc gia trên thế giới có thể thấy chúng ta cần có cách tiếp cận đúng và trúng theo hướng không nên và cũng không thể cấm cho vay ngang hàng, mà thay vào đó cần có biện pháp quản lý để tránh hình thức này biến tướng của mô hình này gây nhiều hệ lụy kinh tế và xã hội. Việc nghiên cứu các cách thức quản lý mô hình này của một số quốc gia trên thế giới cũng chỉ ra sự quản lý của nhà nước cùng với việc xây dựng khung pháp lý cho hoạt động cho vay ngang hàng đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường này.
Đồng thời, sự tham gia của hệ thống tài chính truyền thống cùng phương pháp tiếp cận thận trọng, thắt chặt ban đầu có thể khiến tốc độ phát triển của thị trường cho vay ngang hàng chậm lại sống là cần thiết để người dân lẫn các doanh nghiệp và định hướng phát triển mô hình này cũng đang được đánh giá là phù hợp với Việt Nam.
2. Một số kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật cho vay ngang hàng P2P lending ở Việt Nam:
2.1. Xác định mô hình cho vay ngang hàng:
Cho vay ngang hàng là một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế số và có xu thế phát triển nhanh ở Việt Nam. Bởi vì là sản phẩm tất yếu từ nền kinh tế số vậy nên việc cấm hoạt động này dường như gặp rất nhiều khó khăn và cũng không thể phủ nhận được những tác động tích cực mà hoạt động cho vay ngang hàng mang lại cho nền kinh tế nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Vì vậy, trước tiên cần công nhận P2P lending và cho phép hoạt động của các công ty P2P lending. Việc xác định rõ vai trò của các tổ chức cho vay ngang hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc định hướng và xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động đặc biệt này.
Cho vay ngang hàng là sản phẩm của cách mạng 4.0 và nhờ nó mà một kênh chuyển vốn giữa các cá nhân và tổ chức được thực hiện nhanh, đơn giản và hiệu quả. Với những lợi thế về chi phí vận hành kết hợp với việc thu thập và xử lý thông tin tín dụng nhờ những thuật toán hiện đại, cho vay ngang hàng đang và sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh nặng ký của các trung gian tín dụng truyền thống.
Nếu xem các tổ chức này là những định chế tài chính trung gian trong thị trường tài chính, chỉ khác biệt là thay vì với hình thức giao dịch truyền thống, thì hoạt động vay vốn diễn ra trực tuyến toàn bộ nhờ công nghệ 4.0, thì việc quản lý của nhà nước cũng sẽ phải chặt chẽ hơn với những quy định về an toàn hoạt động như Ngân hàng. Bởi vì, các tổ chức cho vay ngay vẫn phải đối diện với các rủi ro đặc trưng như Ngân hàng, đồng nghĩa với việc họ vẫn phải thực hiện thay các nhà đầu tư vấn đề về giám sát và quản lý chặt chẽ các khoản vay đồng thời phân tích và xếp hạng tín dụng khách hàng một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên xét đúng bản chất thì các nền tảng vay ngang hàng chỉ giữ vai trò là một kênh dẫn trong thị trường, là một người hỗ trợ chứ không phải là một trung gian tài chính trong thị trường. Các tổ chức chỉ cung cấp công nghệ khớp lệnh giữa bên vay và bên cho vay mà hoàn toàn không hề đầu tư vốn vào các khoản vay trên nền tảng của họ, theo đó thì lo ngại rủi ro tín dụng được loại bỏ ra khỏi trách nhiệm trong việc đánh giá xếp hạng khoản vay và khách hàng vay. Nguồn thu của các nền tảng này đến từ phí giao dịch được thực hiện trên nền tảng giống như những doanh nghiệp cung ứng dịch vụ môi giới công nghệ khác.
Như vậy, trước hết cần thừa nhận và cho phép sự hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ Platform như một tổ chức trung gian kết nối giữa người cho vay và người đi vay trên cơ sở có đăng ký kinh doanh theo các điều kiện quy định của pháp luật. Cho vay ngang hàng không mới đối với thế giới nhưng chưa được cho phép hoạt động chính thức tại Việt Nam. Hiện nay, loại hình này chỉ dừng lại ở cơ chế thử nghiệm, sàng lọc cho hoạt động (sandbox) cùng với các loại hình tài chính mới khác với tên gọi là fintech.
Các công ty P2P lending khi thành lập phải xây dựng được một hệ thống chấm điểm rủi ro tín dụng công khai, minh bạch và xây dựng quy trình thẩm định người đi vay, theo dõi giám sát sau khi cho vay, bảo đảm người vay phải tuân thủ đúng các quy định của hợp đồng số tiền gửi của nhà đầu tư và người đi vay phải được gửi tại tài khoản ủy thác của bên thứ 3 trước khi thực hiện bất kỳ giao dịch nào. Việc thực thi thí điểm sẽ giúp lựa chọn mục tiêu quản lý P2P lending và mô hình hoạt động P2P lending phù hợp với điều kiện Việt Nam. Trên cơ sở đó, xác định cụ thể cơ quan quản lý, cách thức vận hành của các công ty P2P lending, các biện pháp quản lý cả ở tầm vi mô lẫn vĩ mô để đảm bảo vận hành hoạt động P2P lending hiệu quả, an toàn, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới
Bên cạnh đó cần xem xét và công nhận định hướng phát triển liên quan đến việc các công ty cho vay ngang hàng liên kết, hợp tác cùng các ngân hàng truyền thống như ở Mỹ. Quan điểm đang được ủng hộ tại Việt Nam khi kết thúc cuộc họp 6/3/2020, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đồng tình với kiến nghị của các bộ, ngành, cho rằng dự thảo Quyết định của Thủ tướng quy định về phương thức hoạt động truyền thống của P2P lending, kết nối trực tiếp người vay với người cho vay, đồng thời xem xét việc mở rộng sự tham gia của các tổ chức tài chính.
Quan điểm này cho thấy sự đề cao sự hợp tác đôi bên cùng có lợi giữa các nền tảng CVNH và các tổ chức tài chính truyền thống, chứ không nhất thiết phải là quan hệ cạnh tranh đối đầu. Nếu biết vận dụng một cách hiệu quả, đây cũng là một trong những hướng đi hợp lý cho các tổ chức CVNH tại Việt Nam. Về việc hợp tác với các ngân hàng, các công ty CVNH tại Việt Nam có thể lựa chọn phương án hợp tác coi Ngân hàng như Nhà đầu tư, giúp các công ty CVNH có thêm nguồn vốn đầu tư, và các Ngân hàng có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình
2.2. Thành lập cơ quan chuyên ngành quản lý P2P lending:
Như đã trình bày trong phần 3.2.1, trước cần thừa nhận và cho phép sự hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ Platform như một tổ chức trung gian kết nối giữa người cho vay và người đi vay trên cơ sở có đăng ký kinh doanh theo các điều kiện quy định của pháp luật. Vì vậy, để đạt hiệu quả trong công tác quản lý mô hình này cần thành lập cơ quan chuyên ngành quản lý P2P Lending
Học hỏi kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới có thể thấy một số nước đã tạo lập cơ quan chuyên ngành để quản lý P2P lending bằng cách thành lập tổ chức các doanh nghiệp trong ngành Cho vay ngang hàng. Một trong số những tổ chức có quy mô và nổi tiếng nhất trong lĩnh vực CVNH là tổ chức P2PFA của Anh. Hiện nay, tổ chức này đã ngừng hoạt động nhưng không thể phủ nhận vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và quản lý các tổ chức CVNH tại Anh, thúc đẩy các hoạt động của mô hình CVNH phát triển theo hướng hiện đại, minh bạch và minh bạch. Việt Nam trong giai đoạn đầu khi công nhận chính thức mô hình hoạt động cho vay ngang hàng có thể học hỏi và xây dựng một tổ chức về CVNH, với vai trò kết nối các nhà cung cấp dịch vụ CVNH.
Việc thành lập tổ chức các doanh nghiệp cho trong ngành cho vay ngang hàng vừa là cơ sở tiêu chuẩn hóa ngành CVNH vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong ngành học hỏi kinh nghiệm và cùng nhau phát triển. Để có thể thành lập tổ chức các doanh nghiệp trong ngành CVNH, trước hết cần tổ chức các hoạt động gặp gỡ và giao lưu giữa các công ty trong ngành CVNH. Việc này sẽ tạo điều kiện để các công ty CVNH cùng học hỏi, giúp đỡ nhau cùng phát triển, thậm chí là hợp tác cùng nhau, đồng thời cũng là tiền đề để thành lập Tổ chức CVNH Việt Nam. Tổ chức CVNH Việt Nam cần có ban quản trị, có điều kiện tham gia và các bộ quy tắc cần thiết nhằm tiêu chuẩn hóa ngành CVNH tại Việt Nam, thiết lập bộ tiêu chuẩn nội bộ áp dụng đối với P2P lending, xây dựng các biện pháp quản lý rủi ro lan truyền trong thị trường tài chính.
Theo đó, tổ chức cho vay ngang hàng Việt Nam đưa ra các nguyên tắc hoạt động cùng bộ quy tắc yêu cầu các công ty P2P lending cam kết thực hiện đầy đủ. Chẳng hạn như đưa ra các tiêu chuẩn về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro hoạt động hay; các tiêu chuẩn về tính minh bạch, bao gồm cung cấp thông tin rõ ràng, cân bằng và công bằng cho tất cả khách hang hay yêu cầu các công ty khi thành lập phải xây dựng được một hệ thống chấm điểm rủi ro tín dụng công khai, minh bạch để đảm bảo các công ty; yêu cầu các công ty cho vay P2P phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về vốn tối thiểu, minh bạch thông tin, tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ chủ chốt, hệ thống hạ tầng công nghệ và quản lý rủi ro, ký quĩ phòng ngừa rủi ro, tuân thủ và báo cáo. Các công ty P2P phải có những qui định rõ ràng, bao gồm: giới hạn đầu tư so với thu nhập của nhà đầu tư, giới hạn góp vốn của mỗi nhà đầu tư, quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm của công ty P2P đối với nhà đầu tư trong trường hợp xảy ra đổ vỡ, … công ty cho vay ngang hàng công bố đầy đủ, minh bạch, trung thực các thông tin về nội dung hợp tác, giao dịch giữa công ty cho vay ngang hàng với tổ chức tín dụng trong tất cả các thông điệp và phương tiện quảng cáo, truyền thông, bán hàng mà công ty cho vay ngang hàng truyền tải đến người tiêu dùng và các bên có liên quan. Ngoài ra, các công ty CVNH phải thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro, chống rửa tiền và hoạt động gian lận để sở hữu một mô hình kinh doanh lành mạnh và có trách nhiệm. Bên cạnh đó, cần triển khai các kênh truyền thông cho Tổ chức CVNH Việt Nam nhằm quảng bá hoạt động CVNH tại Việt Nam
Như vậy, việc thành lập các tổ chức CVNH có ý nghĩa quan trọng đối với cả các nền tảng và các bên tham gia hoạt động CVNH cũng như giúp hoạt động cho vay ngang hàng ở Việt Nam được quảng bá rộng rãi và nhiều người biết tới.
2.3. Ban hành các quy định cụ thể phù hợp cho hoạt động cho vay ngang hàng:
Từ kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới có thể thấy rằng các quốc gia chuyển từ quan điểm không cấp phép hoạt động P2P lending sang cấp phép hoạt động. Có thể thấy sự chậm trễ trong việc ban hành chính sách quản lý hoạt động P2P lending, để các doanh nghiệp P2P lending phát triển tự do đã dẫn đến quyền lợi của các bên tham gia bị ảnh hưởng và gây bất ổn cho kinh tế xã hội.
Chính vì vậy, trong bối cảnh Việt Nam chưa có các quy định cụ thể cho hoạt động này như hiện nay thì cần gấp rút tiến hành rà soát, đánh giá khuôn khổ pháp lý hiện hành để đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới chính sách điều chỉnh hoạt động P2P lending như một hoạt động kinh doanh có điều kiện. Và cần sớm ban hành các quy định cụ thể đối với hình thức cho vay ngang hàng và các đơn vị cung cấp sản phẩm này.
Tham khảo các quy định quản lý tại các quốc gia trên thế giới thì nhìn chung đều tập trung vào 3 vấn đề chính:
- Tiêu chuẩn cấp phép;
- Giới hạn đầu tư/cho vay của nhà đầu tư;
- Hoạt động và giám sát đối với tổ chức cung cấp nền tảng và hoạt động giám sát công bố thông tin.
Từ việc nghiên cứu các khung pháp lý của các nước trên thế giới, có thể đưa ra những định hướng cơ bản để hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam, có thể bổ sung các quy định cụ thể bao gồm:
» Thứ nhất, cần quy định rõ ràng về khái niệm, các bên tham gia hoạt động, phạm vi áp dụng, những giới hạn cấp tín dụng trong cho vay ngang hàng, quy định rõ các mô hình hoạt động P2P lending để đảm bảo loại hình hoạt động của các công ty tham gia được đăng ký đầy đủ chức năng hoạt động P2P lending. Đối với vấn đề cấp phép thì cần xây dựng các quy định về tiêu chuẩn đối với các công ty cung cấp sản phẩm cho vay ngang hàng có thể bao gồm các tiêu chuẩn về vốn tối thiểu năng lực về công nghệ, tiêu chuẩn đội ngũ quản lý và nhân viên, tiêu chuẩn kỹ thuật phần mềm trực tuyến; yêu cầu duy trì sự hoạt động liên tục của các công ty; quy định đầy đủ về các hoạt động chuyên ngành, sản phẩm và dịch vụ, thiết lập các tiêu chuẩn sản phẩm và dịch vụ cho công ty P2P lending theo chuẩn mực một cách minh bạch, đảm bảo an toàn, ổn định; trách nhiệm định hạng tín dụng của người vay; trách nhiệm cung cấp thông tin cho nhà đầu tư; những hạn chế trong việc quảng cáo, mời chào và đặc biệt không đưa ra mức cam kết về mức lãi suất đầu tư hấp dẫn, trách nhiệm dẫn vốn đến nơi sử dụng theo đúng hợp đồng giữa người cho vay và người đi vay. Quy định các tiêu chí, tiêu chuẩn của quản trị viên điều hành, về cơ cấu thành viên, trụ sở hoạt động, nhân sự tổ chức và cho phép hay không cho phép nền tảng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam (kèm theo là các điều kiện bắt buộc).
– Thứ hai, cần đưa ra các quy định đảm bảo sự an toàn cho các bên tham gia hoạt động cho vay ngang hàng như đưa ra giới hạn đầu tư tối đa của người cho vay và người đi vay theo thu nhập hoặc tài sản nắm giữ, quy định về giới hạn góp vốn của mỗi nhà đầu tư, quy định vốn an toàn tối thiểu của tổ chức cung cấp dịch vụ; Quy định bảo vệ quyền lợi đối với những người tham gia. Các nhà đầu tư cần đáp ứng các tiêu chí để tham gia, đảm bảo đủ hiểu biết để đầu tư vào các công ty P2P lending; quy định về quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm của công ty P2P đối với nhà đầu tư trong trường hợp xảy ra đổ vỡ, yêu cầu các công ty P2P lập quỹ dự phòng rủi ro, mở tài khoản ủy thác tại bên thứ ba; khi tiếp cận các khoản vay cần phải xem xét chủ thể nào cho vay, ghi rõ quy định cam kết trên hợp đồng, lưu ý thỏa thuận cụ thể về lãi suất, thời gian vay, lãi suất phạt, lãi suất phạt quá hạn để tránh những rủi ro không đáng có, bên cạnh đó cần xác định cách tính phí liên quan đến hoạt động kinh doanh cho vay P2P lending và giới hạn loại phí và mức phí. Cần ban hành quy định về các cơ chế chuyển giao nền tảng khách hàng trong trường hợp ngừng hoạt động, cơ chế thiết lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro và khuyến khích tham gia mua bảo hiểm tín dụng cho nhà đầu tư, các quy định về bảo mật thông tin, về minh bạch hóa hoạt. Đưa ra các quy định về trách nhiệm sẽ thuộc về ai khi có rủi ro, mất mát nguồn vốn đầu tư, vi phạm nghĩa vụ, đương sự trong giải quyết tranh chấp ...cần được làm rõ một cách chính xác.
Thứ ba, cần ban hành các quy định để xây dựng hệ thống phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hệ thống tài chính tiền tệ khi có sự xuất hiện của cho vay ngang hàng. Các quy định này là cần thiết để góp phần ổn định hệ thống tài chính – tiền tệ, cho dù quy mô và phạm vi hoạt động cho vay ngang hàng dự tính là chưa quá lớn, những hệ lụy khó lường. Bên cạnh đó, trong thời gian xây dựng và hoàn thiện các biện pháp quản lý phù hợp cho thị trường cho vay ngang hàng, thì NHNN cũng cần phải yêu cầu và chỉ đạo các Ngân hàng và Tổ chức tín dụng ngoài ngân hàng cải cách thủ tục hành chính, minh bạch và công bố công khai thông tin về hoạt động cho vay của mình cùng với tăng cường triển khai nhiều chính sách ưu đãi vay vốn để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi chủ thể trong nền kinh tế có thể tiếp cận được với vốn ngân hàng để tạo sự ổn định và sự cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động tiền tệ ngân hàng ở Việt Nam. Đồng thời, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, các Bộ ngành có liên quan tăng cường các hoạt động phát triển, đa dạng hóa thị trường tài chính – tín dụng chính thức, cả về chủng loại, quy mô cho vay và chất lượng sản phẩm tín dụng, đáp ứng nhu cầu tín dụng chính đáng của người dân và doanh nghiệp, tạo ra sức cạnh tranh mạnh, hạn chế các điều kiện để “tín dụng đen” tồn tại, phát triển, thao túng thị trường tín dụng
– Thứ tư, cần quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính ngân hàng, chính quyền địa phương, tổ chức cho vay ngang hàng, nhằm quản lý có hiệu quả hoạt động P2P lending. Quy định về kiểm tra, giám sát hoạt động P2P lending phải đầy đủ và đồng bộ và cần tạo cơ chế rõ ràng và nhiều thuận lợi cho các bên tham gia vào giám sát toàn diện các nền tảng P2P lending chẳng hạn như quy định các công ty P2P lending phải trách nhiệm báo cáo thông tin cho cơ quan quản lý nhà nước theo định kỳ hoặc đột xuất về hoạt động của mình; quy định về thời hạn và nội dung báo cáo mà các công ty P2P lending gửi cho các cơ quan quản lý (NHNN) theo định kỳ về khối lượng giao dịch, số vốn vay đã được thu xếp, tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu hay báo cáo dữ liệu cho Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) đồng thời được khuyến khích việc tra cứu thông tin tín dụng từ CIC phục vụ chấm điểm tín dụng và đánh giá khách hàng để đảm bảo an toàn cho hoạt động vay ngang hàng ở Việt Nam.
Nhìn chung, cần có cách tiếp cận đúng đắn và phù hợp, dựa trên nghiên cứu các khung pháp lý của các quốc gia trên thế giới, qua đó vận dụng vào thực tiễn để nhanh chóng ban hành quy định cụ thể phù hợp với Việt Nam để đảm bảo an toàn và hạn chế rủi ro cho các bên tham gia hoạt động cho vay ngang hàng và góp phần ổn định kinh tế xã hội.
2.4. Nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của quốc gia nhằm đạt hiệu quả trong công tác quản lý hoạt động cho vay ngang hàng:
Song song với việc xây dựng khung pháp lý, để hoạt động cho vay ngang hàng phát triển lành mạnh, an toàn và bền vững và việc quản lý hoạt động P2P lending hiệu quả đồng thời còn hỗ trợ cho cả thị trường tài chính – ngân hàng số nói chung, cần chú trọng nâng cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của quốc gia, nhất là cơ sở dữ liệu lớn (Big data) đồng thời đẩy nhanh xây dựng chính quyền điện tử, cũng như từng bước đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ về lĩnh vực tài chính, tiền tệ và công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu quản lý và phát triển loại hình này, khuyến khích các công ty cho vay ngang hàng tận dụng lợi thế của mạng internet để giúp cho công việc quản lý được hiệu quả hơn.
Trước hết, đối với việc cung cấp hệ thống dữ liệu lớn, yêu cầu các công ty cần nghiên cứu và đầu tư hợp lý để có thể tổng hợp và lưu trữ nguồn dữ liệu này, do dữ liệu lớn thường bao gồm tập hợp dữ liệu với kích thước vượt xa khả năng của các công cụ phần mềm thông thường để thu thập, hiển thị, quản lý và xử lý dữ liệu trong một thời gian có thể chấp nhận được. Dữ liệu lớn yêu cầu một tập các kỹ thuật và công nghệ được tích hợp theo hình thức mới để khai phá từ tập dữ liệu đa dạng, phức tạp, và có quy mô lớn. Về vấn đề tập hợp dữ liệu, khi có khách hàng có nhu cầu vay vốn, các công ty CVNH cần có các biện pháp để thu thập đầy đủ và chính xác các thông tin của khách hàng để xây dựng lên tập dữ liệu. Do quá trình hoàn thiện hồ sơ vay vốn thường diễn ra thông qua mạng internet, nên các công ty cần có các yêu cầu cụ thể đối với các thông tin chi tiết cần thu thập. Dữ liệu thông tin cá nhân được đồng bộ giúp định danh khách hàng chính xác nhằm giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động tài chính. Hơn nữa, các công ty CVNH có thể thiết kế thêm phần đánh giá các bên tham gia giao dịch đây sẽ là nguồn tham chiếu cho các lần giao dịch tiếp theo của họ đồng thời có thể tiến hành xây dựng mạng xã hội nội bộ để thuận tiện cho công tác quản lý [15, tr. 103]. Ngoài ra, cần thiết lập máy chủ riêng biệt cho cơ quan quản lý để yêu cầu các công ty P2P lending kết nối trực tuyến lưu trữ dữ liệu phát sinh về máy chủ nhằm bảo đảm an toàn về thông tin.
2.5. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội và trách nhiệm phối hợp của cơ quan quản lý về hoạt động cho vay ngang hàng:
Để hoàn thiện pháp luật quản lý hoạt động cho vay ngang hàng đạt hiệu quả, cần sự kết hợp của cơ quan quản lý từ chính phủ đến ngân hàng nhà nước cùng ban chỉ đạo về lĩnh vực công nghệ tài chính với các cơ quan có liên quan như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp. Bên cạnh đó nâng cao trách nhiệm và hiệu quả của việc phối kết hợp trên tinh thần đổi mới, cầu thị của các cơ quan quản lý, chính quyền địa phương, hiệp hội, giới truyền thông và tổ chức dân sự khác mới có thể đảm bảo quản lý thông suốt, hiệu quả những sản phẩm, dịch vụ tài chính mới nói chung và cho vay ngang hàng nói riêng.
Chính phủ chỉ đạo các Bộ, Ban, Ngành phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đẩy nhanh nghiên cứu, xây dựng và đề xuất khuôn khổ pháp lý thử nghiệm cho các công ty Fintech nói chung và công ty P2P lending nói riêng phù hợp với thực tiễn, thông lệ quốc tế; tạo cơ chế hợp tác giữa các ngân hàng và các công ty Fintech nói chung và Công ty P2P lending nói riêng và phối hợp trong triển khai thực hiện các biện pháp đảm bảo an ninh mạng, rủi ro của P2P lending; chỉ đạo Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam xây dựng phương án và cổng kết nối riêng cho các Công ty P2P, đảm bảo khi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành khung pháp lý thử nghiệm có thể thực hiện được ngay. Cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động này Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần đưa ra các giải pháp pháp lý theo dõi, giám sát hoạt động thử nghiệm, phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền liên quan như Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tư pháp, Tòa án, Viện kiểm sát... để đưa ra đánh giá tác động, từ đó làm căn cứ xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện cho hoạt động cho vay ngang hàng. Ngân hàng nhà nước cần phối hợp với Bộ, Ban, Ngành tiếp tục triển khai các hành động đã được phê duyệt trong Kế hoạch ứng dụng CNTT của NHNN giai đoạn 2016–2020 và Kế hoạch an ninh, an toàn thông tin cho NHNN Việt Nam giai đoạn 2017–2022. Cần lồng ghép việc xác lập và xây dựng chiến lược chuyển đổi số trong ngành ngân hàng tương thích với chiến lược chuyển đổi số quốc gia do bộ Thông tin Truyền thông chủ trì để có thể phát triển cơ sở dữ liệu bao quát hơn liên quan đến nhóm người cho vay và nhóm người đi vay tiềm năng phục vụ cho việc phát triển thị trường trong tương lai. Bộ Thông tin và truyền thông cũng nên sớm hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia và hành lang pháp lý cho việc chia sẻ dữ liệu thông tin để phục vụ cho việc phát triển mô hình kinh tế chia sẻ trong đó các công ty P2P lending.
Cơ chế phối hợp giữa NHNN và các bộ như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Bộ Tài chính... cần được làm rõ, đặc biệt là nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị này để đảm bảo tính thống nhất trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý lĩnh vực cho vay ngang hàng, tránh tình trạng phân mảnh chồng chéo. Ngoài việc phối hợp trong việc nghiên cứu xây dựng và ban hành các văn bản chính sách quy định rõ ràng, phù hợp với tình hình thực tế thì đồng thời, kết hợp quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của các công ty như đối với các ngân hàng thương mại.Các cơ quan quản lý phải tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm đối với các cá nhân, tổ chức hoạt động mà không đăng ký kinh doanh P2P lending và các hành vi vi phạm pháp luật về P2P lending.
Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với hình thức cho vay ngang hàng, chính phủ tiến tới xây dựng chiến lược quốc gia bằng cách chỉ đạo truyền thông và giáo dục tài chính về P2P lending để toàn dân hiểu được bản chất cũng như lợi ích, rủi ro của mô hình này, giúp cho người dân nâng cao khả năng nhận thức về dịch vụ P2P lending, cũng như kiến thức cơ bản về tài chính, ngân | hàng khác. Người dân và doanh nghiệp phải hiểu rõ bản chất của cho vay P2P và những rủi ro có thể xảy ra để tự quyết định các giao dịch tài chính của mình. Nhà đầu tư cần hiểu rõ đây là một kênh đầu tư chứ không phải là gửi tiền, do đó rủi ro mất tiền hoặc lợi nhuận không như kỳ vọng là điều có thể xảy ra, cần yêu cầu cung cấp thông tin rõ ràng về người vay và mục đích vay và đánh giá những rủi ro có thể xảy ra khi quyết định đầu tư.
Các công ty cũng cần tăng cường hợp tác với các ngân hàng trong việc đưa ra các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới tích hợp công nghệ 4.0 và hiện đại hóa quy trình vận hành nội bộ để phát triển sản phẩm dịch vụ và quản trị rủi ro. Đẩy mạnh tuyên truyền về các phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng lợi dụng lĩnh vực tài chính, cho vay để phạm tội nhằm nâng cao cảnh giác của người dân trước thủ đoạn lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, rửa tiền, cho vay lãi nặng của tội phạm. Đồng thời khuyến khích người dân tích cực tố cáo, tố giác tội phạm có dấu hiệu hoạt động tín dụng đen”, hợp tác chặt chẽ với cơ quan công an để thu thập thông tin, tài liệu làm chứng cứ phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến mô hình P2P lending.