Như đã biết thì Việt Nam được biết đến là một quốc gia ven biển và có đường bờ biển rất dài và bao chọn phần đất liền là đường bờ biển kéo dài từ miền Bắc tổ quốc đến cuối Mũi Cà Mau. Vậy nội thủy của một quốc gia có biển được định nghĩa là gì? Quy định về nội thủy của Việt Nam ra sao?
Mục lục bài viết
1. Nội thủy là gì?
Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển, nội thủy của một quốc gia bao gồm vùng nước ở phía bên của đường cơ sở của lãnh hải của quốc gia hướng về phía đất liền, ngoại trừ các quốc gia quần đảo. Nó bao gồm các tuyến đường thủy như sông và kênh, và đôi khi nước trong các vịnh nhỏ.
Trên cơ sở quy định tại Khoản 1 Điều 8 Công ước luật biển 1982 định nghĩa, nội thuỷ là “các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.
Trong vùng nước nội địa, chủ quyền của quốc gia ngang với chủ quyền của quốc gia đó trên đất liền. Quốc gia ven biển được tự do đưa ra luật liên quan đến vùng nội thủy của mình, quy định việc sử dụng và sử dụng bất kỳ nguồn tài nguyên nào. Trong trường hợp không có các thỏa thuận ngược lại, tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại trong nội thủy, và việc không có quyền đi lại vô tội vạ này là điểm khác biệt cơ bản giữa nội thủy và lãnh hải. “Vùng nước quần đảo” trong các đảo ngoài cùng của các quốc gia quần đảo được coi là vùng nội thủy với ngoại lệ là phải được phép đi lại vô tội vạ, mặc dù quốc gia quần đảo có thể chỉ định một số tuyến đường biển nhất định trong các vùng nước này.
Khi tàu thuyền nước ngoài được phép vào vùng nước nội địa, tàu đó phải tuân theo luật của quốc gia ven biển, trừ một trường hợp ngoại lệ: thuyền viên của tàu phải tuân theo luật của quốc gia treo cờ. Điều này kéo dài đến các điều kiện lao động cũng như các tội phạm xảy ra trên tàu, ngay cả khi cập cảng. Các hành vi phạm tội xảy ra tại bến cảng và các tội ác do thủy thủ đoàn tàu thuyền nước ngoài thực hiện luôn thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển có thể can thiệp vào công việc của tàu khi thuyền trưởng yêu cầu sự can thiệp của chính quyền địa phương, khi có nguy cơ xảy ra đối với hòa bình và an ninh của quốc gia ven biển hoặc để thực thi các quy tắc hải quan.
Nội thủy của một quốc gia bao gồm tất cả các vùng nước và đường thủy ở phía đất liền của đường cơ sở mà từ đó lãnh hải của một quốc gia được xác định. Nó bao gồm các tuyến đường thủy như sông và kênh, và đôi khi nước trong các vịnh nhỏ. Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển, quốc gia ven biển được tự do đặt ra luật, điều chỉnh việc sử dụng và sử dụng bất kỳ nguồn tài nguyên nào. Tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại trong nội thủy, và việc không có quyền đi lại vô tội vạ này là điểm khác biệt cơ bản giữa nội thủy và lãnh hải.
Nội thủy có tên gọi được dịch sang tiếng Anh là: “Internal waters”.
2. Quy định về cách xác định nội thủy:
Nội thủy thường được định nghĩa trong mối quan hệ với → lãnh hải là vùng nước bên trong giới hạn của lãnh hải. Nhưng nội thủy có thể tồn tại mà không có lãnh hải, và lãnh hải có thể tồn tại không có nội thủy. Khái niệm này bao gồm các khu vực nước mặn, cũng như các khu vực nước ngọt nội bộ, chẳng hạn như sông và hồ. Tuy nhiên, các khu vực quan trọng của nội thủy như sông ngòi thường xuyên phải chịu các chế độ đặc biệt. Thuật ngữ “nội thủy” được định nghĩa ở giai đoạn tương đối muộn trong sự phát triển của khung khái niệm hiện đại về luật quốc tế → luật biển và nó trở thành thời hạn chỉ được chấp nhận sau Thế chiến II.
Công ước của LHQ về Luật Biển năm 1982 quy định: “Các vùng nước ở phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là nội thủy của quốc gia ven biển” (Điều 8).
Theo định nghĩa này, nội thủy bao gồm cửa sông, vũng, vịnh, cảng biển và vùng nước ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển; vùng nước lịch sử cũng theo chế độ nội thủy. Nội thủy được coi như là bộ phận lãnh thổ trên đất liền của quốc gia ven biển. Điều đáng lưu ý là khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương pháp mà gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là nội thuỷ thì quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó.
Trên cơ sở quy định tại Điều 9 của
– Bờ vịnh chỉ thuộc một quốc gia;
– Diện tích của vịnh ít nhất phải bằng hoặc lớn hơn diện tích của Ỉ4 hình tròn có đường kýnh là đường thẳng kẻ ngang cửa vào của vịnh;
– Đường cửa vịnh không được vượt quá 24 hải lý (Theo Điều 46 UNCLOS 1982, quốc gia quần đảo là các quốc gia mà lãnh thổ được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đào khác nữa và Xem thêm khoản 4, khoản 5 Điều 10 UNCLOS 1982).
Việc một quốc gia tuyên bố chủ quyền của một tuyến đường thủy là nội thủy đã dẫn đến tranh chấp với các quốc gia khác. Ví dụ, Canada tuyên bố một phần của Tây Bắc Passage là một phần nội thủy của mình, hoàn toàn thuộc quyền tài phán của Canada, một yêu sách đã bị tranh chấp bởi Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia hàng hải, vốn coi họ là một eo biển quốc tế, có nghĩa là tàu thuyền nước ngoài có quyền qua lại.
Nội thủy là ‘những vùng nước nằm trên đất liền của đường cơ sở mà từ đó lãnh hải được đo lường’. Cụ thể, nội thủy theo nghĩa pháp lý bao gồm (i) các phần biển dọc theo bờ biển xuống đến vạch nước thấp, (ii) cảng và bến cảng, (iii) cửa sông, (iv) vùng nước đất liền từ dòng đóng của vịnh , và (v) vùng nước được bao bọc bởi các đường cơ sở thẳng. Mặt khác, như đã nói trước đó, vùng nước nội thủy trong luật biển không bao gồm vùng nước trong lãnh thổ đất liền và vùng nước hoặc hồ bị khóa chặt trong đất liền.
Giới hạn về phía biển của nội thủy được xác định bằng đường cơ sở đo lãnh hải. Đường cơ sở trở thành giới hạn trên đất liền của lãnh hải. Theo đó, nội thủy được giới hạn bởi lãnh hải của quốc gia ven biển. Một ngoại lệ là trường hợp của các Quốc gia quần đảo. Như sẽ thấy, các Quốc gia quần đảo có thể vẽ đường giới hạn vùng nội thủy của mình qua các cửa sông, vịnh và cảng chỉ trong vùng nước quần đảo của mình. Trong trường hợp này, nội thủy được giới hạn bởi quần đảo chứ không phải lãnh hải.
Cũng theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển, nội thủy của một quốc gia bao gồm vùng nước ở phía bên của đường cơ sở của lãnh hải của một quốc gia hướng về phía đất liền, ngoại trừ các quốc gia quần đảo. Nó bao gồm các tuyến đường thủy như sông và kênh, và đôi khi nước trong các vịnh nhỏ.
3. Chủ quyền quốc gia đối với vùng nội thuỷ:
Trong vùng nước nội địa, chủ quyền của quốc gia ngang với chủ quyền của quốc gia đó trên đất liền. Quốc gia ven biển được tự do đưa ra luật liên quan đến vùng nội thủy của mình, điều chỉnh việc sử dụng và sử dụng bất kỳ nguồn tài nguyên nào. Trong trường hợp không có các thỏa thuận ngược lại, tàu thuyền nước ngoài không có quyền đi lại trong nội thủy, và việc không có quyền đi lại vô tội vạ này là điểm khác biệt cơ bản giữa nội thủy và lãnh hải. “Vùng nước quần đảo” trong các đảo ngoài cùng của các quốc gia quần đảo được coi là vùng nội thủy với ngoại lệ là phải được phép qua lại, mặc dù quốc gia quần đảo có thể chỉ định một số tuyến đường biển nhất định trong các vùng nước này.
Khi tàu thuyền nước ngoài được phép vào vùng nước nội địa, tàu đó phải tuân theo luật của quốc gia ven biển, trừ một trường hợp ngoại lệ: thuyền viên của tàu phải tuân theo luật của quốc gia treo cờ. Điều này kéo dài đến các điều kiện lao động cũng như các tội phạm xảy ra trên tàu, ngay cả khi cập cảng. Các hành vi phạm tội xảy ra tại bến cảng và các tội ác do thủy thủ đoàn tàu thuyền nước ngoài thực hiện luôn thuộc quyền tài phán của quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển có thể can thiệp vào công việc của tàu khi thuyền trưởng yêu cầu chính quyền địa phương can thiệp, khi có nguy cơ xảy ra đối với hòa bình và an ninh của quốc gia ven biển hoặc để thực thi các quy tắc hải
– Theo Pháp luật Việt Nam
Theo Điều 10 Luật Biển Việt Nam quy định Chế độ pháp lý của nội thuỷ như sau:
“Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền.”
Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng ở bên ngoài vùng nội thủy đó, quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để được phép vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.
Trong nội thủy, lãnh hải Việt Nam, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác của nước ngoài phải hoạt động ở trạng thái nổi trên mặt nước và phải treo cờ quốc tịch, trừ trường hợp được phép của Chính phủ Việt Nam hoặc theo thỏa thuận giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ của quốc gia mà tàu thuyền đó mang cờ.
Quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành các biện pháp để bắt người, điều tra đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài sau khi rời khỏi nội thủy và đang đi trong lãnh hải Việt Nam. Đối với tội phạm xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài đang đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không phải ngay sau khi rời khỏi nội thủy Việt Nam, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền tiến hành bắt người, điều tra trong các trường hợp sau đây:
Lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam nếu các tàu thuyền này đang ở trong nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam.
Việc quy định nội thủy trong Luật Biển Việt Nam là sự kế thừa các tuyên bố về đường cơ sở, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thêm lục địa Việt Nam hoàn toàn thống nhất, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biến năm 1982. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng của Luật Biển Việt Nam để thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ ở vùng nội thủy Việt Nam.
– Quy định trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
Trong nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối tương tự như đối với đất liền. Công ước không có quy định trực tiếp về chủ quyền đối với nội thủy nhưng gián tiếp thông qua quy định về quy chế pháp lý của lãnh hải: “Chủ quyền của quốc gia ven biển mở rộng, vượt ra ngoài lãnh thổ đất liền và nội thủy và vùng nước quần đảo trong trường hợp quốc gia quần đảo,…” Tuy nhiên, chủ quyền ở lãnh hải khác với chủ quyền ở nội thủy. Trong khi chủ quyền ở lãnh hải bị giới hạn bởi quyền qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài, thì chủ quyền ở nội thủy về cơ bản là đầy đủ và tuyệt đối.
Do quốc gia ven biển có chủ quyền đầy đủ và tuyệt đối như trên đất liền đối với nội thủy, mọi tàu thuyền của nước ngoài muốn đi vào hoặc có hoạt động bất kỳ nào trong nội thủy cũng cần phải xin phép quốc gia ven biển trước khi thực hiện. Ngoại lệ duy nhất đối với chủ quyền của quốc gia ven biển ở trong nội thủy được quy định ở Điều 8(2). Điều này quy định:
“2. Ở nơi mà việc thiết lập đường cơ sở thẳng dẫn đến khoanh vùng một khu vực biển thành nội thủy, mà khu vực đó trước đây không có quy chế đó, quyền qua lại vô hại như được quy định ở Công ước này sẽ tồn tại trong những vùng biển đó.” (2. Where the establishment of a straight baseline in accordance with the method set forth in article 7 has the effect of enclosing as internal waters areas which had not previously been considered as such, a right of innocent passage as provided in this Convention shall exist in those waters.).
Theo quy định này, nếu một quốc gia do vạch đường cơ sở thẳng mà biến một vùng biển nào đó trước đây không phải là nội thủy thành nội thủy thì quyền qua lại vô hại vẫn được áp dụng trong khu vực đó. Điều này có nghĩa một phần nội thủy bên trong đường cơ sở thẳng sẽ thực tế có quy chế tương tự như lãnh hải. Lưu ý rằng khoản 2, Điều 5 này chỉ áp dụng đối với trường hợp nội thủy tạo ra bởi đường cơ sở thẳng mà không áp dụng cho đường cơ sở thông thường và đường cơ sở quần đảo.
Thực thi thẩm quyền đối với sự vụ xảy ra trên tàu thuyền nước ngoài trong nội thủy
Đối với thẩm quyền dân sự, các quốc gia ven biển thông thường không thực thi đối với các sự vụ giữa thành viên trên tàu. Thực tiễn này không nhất thiết đồng nghĩa với việc các quốc gia không có quyền thực thi hay có quyền nhưng thường không thực thi.
Đối với thẩm quyền hình sự, hiện nay có hai quan điểm. Theo quan điểm Anh-Mỹ, quốc gia ven biển có đầy đủ thẩm quyền đối với tàu nước ngoài trong nội thủy, nhưng thường không thực thi thẩm quyền này. Lý do không thực thi trên thực tế là trên cơ sở hữu nghị (comity). Quan điểm của Pháp thì ngược lại: quốc gia ven biển không có thẩm quyền đối với những vấn đề thuộc về nội bộ thuần túy trên tàu nước ngoài trong nội thủy, như vấn đề thuộc về kỷ luật nội bộ hay kể cả các tội phạm do thành viên tàu thực hiện, trừ khi các sự vụ này ảnh hưởng đến hòa bình, trật tự của cảng biển hoặc chính quyền địa phương được đề nghị giúp đỡ.
Từ hai quan điểm trên có thể thấy điểm khác biệt lớn nhất nằm ở cách các quốc gia giải thích cho việc không thực thi thẩm quyền hình sự trên thực tế. Còn trên thực tế, kết quả của việc áp dụng hai quan điểm gần như là như nhau. Cũng cần lưu ý là UNCLOS dường như ủng hộ quan điểm Anh-Mỹ khi gián tiếp quy định các quốc gia ven biển có quyền thực thi thẩm quyền hình sự để bắt giữ và điều tra tàu thuyền trên lãnh hải nếu tàu thuyền đó vừa rời khỏi nội thủy của mình.
Điều 8, khoản 2 của Công ước 1982, còn trù định một chế độ quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng nước trước kia chưa được coi là nội thuỷ nhưng do việc vạch đường cơ sở thẳng phù hợp với Điều 7 của Công ước 1982 đã bị gộp vào nội thuỷ. Như vậy, Công ước 1982 lần đầu tiên đã phân biệt thêm một vùng nước nội thuỷ trong đó tồn tại quyền qua lại không gây hại của tàu thuyền nước ngoài. Một quốc gia có thể có nhiều vùng nước nội thuỷ với các chế độ pháp lý khác nhau: nội thuỷ, nội thuỷ trong đó quyền qua lại vô hại của tàu thuyền được tôn trọng và vùng nước lịch sử được đặt dưới chế độ nội thuỷ.
Tóm lại, mặc dù Công ước trao cho quốc gia ven biển chủ quyền đầy đủ và tuyệt đối trên nội thủy nhưng các quốc gia này thường không thực thi thẩm quyền đối với các sự vụ xảy ra trên tàu, trừ khi có ảnh hưởng đến quốc gia ven biển.