Hàng hóa không chỉ xuất xứ hàng hóa mà nơi sản xuất cũng là những yếu tố cần thiết để cung cấp cho người tiêu dùng biết được nguồn gốc của loại hàng hóa đó. Có thể thấy xuất xứ, nơi sản xuất đóng vai trò vô cùng quan trọng, tuy nhiên cần phải phân biệt giữa xuất xứ và nơi sản xuất.
Mục lục bài viết
1. Xuất xứ là gì?
– Xuất xứ (Origin) “WO” hay còn gọi là “Xuất xứ thuần túy” là một trong những tiêu chí cơ bản và quan trọng được sử dụng để xác định xuất xứ của hàng hóa. WO là tiêu chí chặt nhất so với tất cả các tiêu chí còn lại trong hệ thống quy tắc xuất xứ. Với thực tiễn thương mại quốc tế như hiện nay, không có nhiều các sản phẩm đáp ứng tiêu chí này. WO được hiểu là hàng hóa thu được toàn bộ trong phạm vi lãnh thổ của Bên thành viên xuất khẩu hoặc được sản xuất hoàn toàn từ nguyên liệu có xuất xứ thuần túy của Bên thành viên xuất khẩu đó. Động vật sống (con gà, con bò, …) được sinh ra và nuôi dưỡng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam được coi là có xuất xứ thuần túy Việt Nam. hàng hóa được coi là có xuất xứ thuần túy hoặc được coi là sản xuất toàn bộ tại Nước thành viên xuất khẩu trong các trường hợp sau:
+ Cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng bao gồm quả, hoa, rau, cây, tảo biển, nấm và các loại cây trồng khác được trồng và thu hoạch, hái hoặc thu lượm tại đó.
+ Động vật sống bao gồm động vật có vú, chim, cá, loài giáp xác, động vật thân mềm, loài bò sát, vi khuẩn và virút, được sinh ra và nuôi dưỡng tại Nước thành viên xuất khẩu.
+ Các hàng hóa chế biến từ động vật sống tại Nước thành viên xuất khẩu.
+ hàng hóa thu được từ săn bắn, đánh bẫy, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, thu lượm hoặc săn bắt tại Nước thành viên xuất khẩu.
+ Khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên khác chưa được liệt kê từ được chiết xuất hoặc lấy ra từ đất, biển, đáy biển hoặc dưới đáy biển của Nước thành viên đó.
+ Sản phẩm đánh bắt bằng tàu được đăng ký tại một Nước thành viên và có treo cờ của Nước thành viên đó, và các sản phẩm khác được khai thác từ vùng biển lãnh hải, đáy biển hoặc dưới đáy biển ngoài vùng lãnh hải của Nước thành viên đó, với điều kiện là Nước thành viên đó có quyền khai thác biển, đáy 3 biển và dưới đáy biển đó theo luật quốc tế .
+ Sản phẩm đánh bắt và các sản phẩm từ biển khác đánh bắt từ vùng biển cả bằng tàu được đăng ký tại một Nước thành viên và treo cờ của Nước thành viên đó.
+ Sản phẩm được chế biến và/hoặc được sản xuất ngay trên tàu chế biến được đăng ký tại một Nước thành viên và treo cờ của Nước thành viên đó, trừ các sản phẩm được quy định tại khoản 7 Điều này.
+ Các vật phẩm thu nhặt tại nước đó nhưng không còn thực hiện được những chức năng ban đầu hoặc cũng không thể sửa chữa hay khôi phục được và chỉ có thể vứt bỏ hoặc dùng làm các nguyên vật liệu, hoặc sử dụng vào mục đích tái chế.
+ Phế thải và phế liệu có nguồn gốc từ:
(1) Quá trình sản xuất tại Nước thành viên xuất khẩu; hoặc
(2) hàng hóa đã qua sử dụng được thu nhặt tại Nước thành viên xuất khẩu, với điều kiện hàng hóa đó chỉ phù hợp làm nguyên vật liệu thô.
+ Hàng hóa thu được hoặc được sản xuất tại một Nước thành viên xuất khẩu từ các sản phẩm được quy định trong Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA)
2. Tìm hiểu về xuất xứ thuần túy:
– Trong hầu hết các FTA Việt Nam tham gia, “WO” được hiểu là xuất xứ thuần túy trong phạm vi lãnh thổ của MỘT Bên thành viên, có nghĩa toàn bộ 100% nguyên liệu được sử dụng để tạo ra thành phẩm phải có xuất xứ thuần túy trong phạm vi lãnh thổ của Bên thành viên đó; có nghĩa hàng hóa đó phải thu được toàn bộ trong phạm vi lãnh thổ của Bên thành viên đó. Nếu có bất kỳ thành phần nguyên liệu nào không có xuất xứ hoặc không xác định được xuất xứ được thêm vào trong quá trình sản xuất sẽ loại trừ hàng hóa đó ra khỏi định nghĩa “xuất xứ thuần túy”.
– Một ví dụ về con cá được ướp muối. Cá được đánh bắt trên sông của Lào nhưng muối không xác định được xuất xứ (Lào là quốc gia không có biển), hoặc muối có xuất xứ thuần túy được nhập khẩu từ Việt Nam. Cá ướp muối sẽ không được coi là có xuất xứ thuần túy Lào cho dù 99% trị giá của cá thành phẩm có xuất xứ thuần túy Lào và chỉ 1% muối không xác định được xuất xứ hoặc được nhập khẩu từ một thành viên ASEAN.
– “WO” cũng có thể được hiểu là xuất xứ thuần túy trong phạm vi lãnh thổ của một FTA, tức nhiều hơn MỘT Bên thành viên của FTA đó. WO-FTA có thể tìm thấy trong Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) và Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Trong trường hợp này, mỗi Bên thành viên được coi như một tỉnh/ thành phố/ địa phương của Việt Nam (hoặc của bất cứ thành viên FTA nào) và toàn bộ khu vực FTA được coi như một vùng lãnh thổ của một quốc gia thống nhất.
– Một ví dụ cụ thể minh họa cho tiêu chí rất chặt chẽ này: Nếu cà phê hòa tan có quy tắc xuất xứ thuần túy ATIGA và được sản xuất tại Việt Nam, cà phê được trồng và thu hoạch tại tỉnh Lâm Đồng, sữa được thu hoạch toàn bộ tại huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh và đường được sản xuất toàn bộ từ mía của tỉnh Quảng Ngãi. Cà phê, sữa và đường được gom chế biến thành cà phê tan tại Vina Café Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và đáp ứng tiêu chí xuất xứ thuần túy ATIGA, có nghĩa 100% nguyên liệu phải có xuất xứ thuần túy Việt Nam và thành phẩm đáp ứng tiêu chí xuất xứ thuần túy ATIGA khi xuất khẩu từ Việt Nam sang các nước thành viên ASEAN.
– Với tiêu chí WO-TPP (xuất xứ thuần túy trong phạm vi FTA, thay vì “trong phạm vi lãnh thổ một thành viên FTA”), sữa có xuất xứ thuần túy Niu Di-lân; đường có xuất xứ thuần túy Ma-lai-xi-a và cà phê có xuất xứ thuần túy Việt Nam. Việt Nam nhập khẩu sữa và đường nói trên về chế biến cà phê hòa tan có xuất xứ thuần túy TPP, khi xuất khẩu từ Việt Nam tới các thành viên TPP, sản phẩm này được ghi trên C/O hoặc TCNXX với tiêu chí “WO” – được hiểu là “WO-TPP”. Khi đó mỗi một thành viên TPP được coi như 1 tỉnh/ thành phố của Việt Nam: Niu Di-lân là thành phố Hồ Chí Minh, Ma-lai-xi-a là Quảng Ngãi và sản phẩm cuối cùng được tạo ra hoàn toàn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam/ TPP.
– Trong AKFTA, sản phẩm có mã HS 0304.82 (phi lê đông lạnh của cá hồi) có tiêu chí WO-AK có nghĩa là cá hồi có xuất xứ thuần túy Việt Nam, hóa chất sử dụng để ướp cá (chiếm 1% trị giá thành phẩm) có thể được nhập khẩu từ Ma-lai- xi-a (thành viên AKFTA) và phải có xuất xứ thuần túy tại Ma-lai-xi-a. Khi đó, thành phẩm 0304.82 được chế biến tại Việt Nam có thể đáp ứng tiêu chí WO- AK khi xuất khẩu sang các thành viên AKFTA khác.
– Giấy chứng nhận xuất xứ trong Hiệp định Thương mại Tự do Hàn Quốc-Canada: Với sự gia tăng của các hiệp định thương mại, một loạt các hình thức chứng nhận xuất xứ đã được sử dụng trong thương mại quốc tế. Trong khi về nguyên tắc, mỗi quốc gia thường chỉ cung cấp một hình thức chứng nhận xuất xứ không ưu đãi (hoặc thậm chí không có hình thức nào), thì hình thức chứng nhận xuất xứ ưu đãi lại khác nhau giữa các hiệp định thương mại này. Có nghĩa là quốc gia càng tham gia nhiều hiệp định thương mại thì thương nhân của quốc gia đó càng cần phải làm quen với các hình thức chứng nhận xuất xứ ưu đãi.
3. Có phải sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ để hưởng ưu đãi?
– Để yêu cầu ưu đãi theo một hiệp định thương mại nhất định, thương nhân phải sử dụng chính xác mẫu giấy chứng nhận xuất xứ được thiết kế cho hiệp định đó. Lấy Việt Nam làm ví dụ, một nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ xin giấy chứng nhận xuất xứ ưu đãi Mẫu A cho mục đích GSP, Mẫu D nếu xuất khẩu sang một nước ASEAN khác.
– Mẫu E nếu xuất khẩu sang Trung Quốc theo hiệp định thương mại ASEAN-Trung Quốc, Mẫu AK nếu xuất khẩu. sang Trung Quốc theo hiệp định thương mại ASEAN-Hàn Quốc, v.v. Đặc biệt, nếu đối tác thương mại của mình là nhà nhập khẩu Nhật Bản, nhà xuất khẩu Việt Nam này có thể cần phải lựa chọn trong số Mẫu A (GSP), Mẫu AJ (ASEAN-Nhật Bản) hoặc Mẫu VJ (Việt Nam- Nhật Bản), tùy thuộc vào thỏa thuận ưu đãi mà anh ta lựa chọn để tuân theo.
– Tuy nhiên, hầu như tất cả các biểu mẫu giấy chứng nhận xuất xứ đều áp dụng một mẫu tương tự, với các trường được điền bao gồm quốc gia xuất xứ, tên và địa chỉ của người gửi hàng, tên và địa chỉ của người nhận hàng, chi tiết vận chuyển, mô tả và số lượng sản phẩm, con dấu và chữ ký của cơ quan phát hành nếu chứng nhận được ủy quyền là bắt buộc.
– Bên cạnh đó, một số quốc gia và khối thương mại đã có nhiều nỗ lực trong việc giảm bớt sự khác biệt của các hình thức chứng nhận xuất xứ. Ví dụ: chứng chỉ chuyển động EUR.1 (còn được gọi là chứng chỉ EUR.1, hoặc EUR.1) được công nhận là chứng chỉ xuất xứ trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương khác nhau của hệ thống ưu đãi Liên Âu.
– Dạng giấy chứng nhận xuất xứ phổ biến nhất là dạng giấy. Giấy chứng nhận được sử dụng rộng rãi vì trong hầu hết các trường hợp, chúng phải có chữ ký và con dấu của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất và của cơ quan cấp. Hơn nữa, việc xác minh và chấp nhận chứng từ điện tử còn cần nhiều thời gian để áp dụng rộng rãi nên việc bãi bỏ chứng nhận xuất xứ trên giấy là không thể trong tương lai gần.
– Mặc dù ngày càng có nhiều hiệp định thương mại cho phép thương nhân tự in giấy chứng nhận, nhưng việc chúng được cơ quan có thẩm quyền in sẵn và bán hoặc giao cho người nộp đơn là khá phổ biến. Ví dụ, hiệp định thương mại tự do giữa Thái Lan và Ấn Độ yêu cầu giấy chứng nhận xuất xứ phải được in theo cách cụ thể, có nghĩa là thương nhân không thể tự in:
– Các bước để có được giấy chứng nhận xuất xứ
+ Hoàn thành và công chứng một bản tuyên thệ thích hợp.
+ Cung cấp hóa đơn sản xuất hoặc hóa đơn thương mại cho biết nơi sản xuất hàng hóa của bạn.
+ Điền vào giấy chứng nhận xuất xứ tài liệu.
+ Gửi bản tuyên thệ có công chứng, tài liệu chứng nhận xuất xứ và các hóa đơn tương ứng cho phòng thương mại của bạn.
+ Cho biết tài liệu nào bạn muốn được đóng dấu.
4. Xuất xứ và nơi sản xuất có phải là một không?
– Xuất xứ được hiểu là nước hoặc một nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hóa hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cuối cùng đối với hàng hóa. Bên cạnh đó, nơi sản xuất được hiểu là những khu vực chế biến, sản xuất, thông qua những công đoạn, quy trình để tạo ra sản phẩm.
– Xuất xứ chính cần phải có những giấy những nhận xuất xứ hàng hóa như đã nêu ở trên, bởi lẽ việc đáp ứng đầy đủ những giấy tờ chứng minh về chứng nhận xuất xứ hàng hóa sẽ là cơ sở để được hưởng những ưu đãi về thuế quan. Xuất xứ hàng hóa ngoài phải có giấy chứng nhận xuất xứ thì cần phải được in trên nhãn hiệu của hàng hóa đó. Bên cạnh đó, nơi sản xuất chính là để cung cấp thông tin về địa chỉ của nơi sản xuất ra hàng hóa và nơi sản xuất hàng hóa sẽ được in trên bao bì và sẽ không có giá trị pháp lý, chỉ có giá trị thương mại nhằm khẳng định nơi sản xuất hàng hóa để thu hút người tiêu dùng.
Do đó, có thể thấy được rằng, xuất xứ hàng hóa và nơi sản xuất là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, không phải là một.