Hiện nay với sự phát triển của nền kinh tế mở việc thỏa thuận thương mại tự do là vấn đề rất được quan tâm phát triển bởi nhưng giá trị mà nó mang lại cho đất nước và nền kinh tế thế giới, hiện nay Việt nam đã kí kết một số hiệp định trong đó phải kể tới Hiệp định AIFTA. Vậy Hiệp định AIFTA là gì?
Mục lục bài viết
1. Hiệp định AIFTA là gì?
Hiệp định AIFTA – danh từ, trong tiếng Anh được gọi là ASEAN-India Free Trade Agreement, viết tắt là AIFTA.
Hiệp định AIFTA hay còn được gọi là Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Ấn Độ, được kí kết giữa các quốc gia ASEAN và Ấn Độ vào ngày 13/8/2009 tại Thái Lan. (Theo Association of Southeast Asian Nations – ASEAN)
Hiệp định AIFTA thể hiện tầm quan trọng của việc đối xử đặc biệt, tăng sự tham gia cho các nước thành viên ASEAN trong hội nhập kinh tế và hợp tác kinh tế giữa ASEAN và Ấn Độ.
Như vậy ta thấy tại hiệp định này sẽ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh và giao thương giữa hai bên, qua đó khai thác tối đa tiềm năng các mối quan hệ kinh tế, tăng cường khả năng phục hồi và hội nhập khu vực.
2. Nội dung, tinh thần hiệp định AIFTA:
Về phía Ấn Độ
Như trong hiệp định này có sự cam kết của các bên đầu tiên là bên phía ân Độ cam kết xóa bỏ 80% số dòng thuế vào 2016 (71% số dòng thuế vào 2013, và thêm 9% số dòng thuế vào 2016), 10% số dòng thuế hoàn thành cắt giảm một phần thuế suất vào 2019, danh mục loại trừ chiếm khoảng 10% số dòng thuế.
Không những thế còn có các cam kết về mặt hàng Ấn Độ cam kết xóa bỏ thuế quan gồm động vật sống, thịt, cá, sữa, rau quả, dầu mỡ, bánh kẹo, nước hoa quả, hóa chất, mỹ phẩm, nguyên phụ liệu dệt may, sản phẩm dệt may, kim loại, sắt thép, máy móc, thiết bị điện, đồng hồ,…
Về phía Việt Nam
Ngày 14/11/2014, Bộ Tài chính đã ban hành
Việt Nam cam kết xóa bỏ 80% số dòng thuế vào năm cuối lộ trình là năm 2021 (71% số dòng thuế vào 2018, và 9% số dòng thuế vào 2021), 10% số dòng thuế còn lại chỉ cắt giảm vào cuối lộ trình (năm 2024), danh mục loại trừ gồm 468 dòng HS 6 số (chiếm khoảng 10% số dòng thuế).
Theo đó, từ các cam kết được trích trong hiệp định như trên ta thấy từ năm 2015 đến 2018 có 1170 dòng có mức thuế suất là 0%, chiếm 12,3% tổng số dòng thuế, trong đó chỉ có 8 dòng thuế ưu đãi hơn so với thuế suất MFN hiện hành.
Như vậy thì Việt Nam sẽ kết thúc thực hiện lộ trình cam kết xóa bỏ/cắt giảm thuế vào 2024 với tỉ lệ xóa bỏ 70% số dòng thuế, tập trung vào nhóm chè, cà phê, cao su, rau củ quả, giày dép, Hàng gia dụng, thuỷ sản, Hoá chất, Kim loại, sắt thép, khoáng sản, Máy móc, thiết bị, vật liệu xây dựng.
3. Cam kết giữa các bên trong hiệp định AIFTA:
Tương tự như nhiều FTA khác trong khuôn khổ ASEAN, mặc dù giữa ASEAN và Ấn Độ có nhiều Hiệp định, Hiệp định về hàng hóa là FTA có mức độ tự do hóa đáng chú ý nhất và có hiệu quả thực thi tốt nhất. Hiệp định về dịch vụ mặc dù bao gồm biểu cam kết mở cửa cụ thể của từng thành viên nhưng mức mở cửa cơ bản tương tự WTO.
Cam kết về thuế quan
Về thuế quan, Ấn Độ cam kết loại bỏ thuế quan theo lộ trình sau:
+ Xóa bỏ 80% số dòng thuế trong Biêu thuế từ 2016, nâng lên đến 90% số dòng thuế vào năm 2019 (năm cuối của lộ tình)
+ Không cam kết cắt giảm thuế đối với khoảng 10% số dòng thuế còn lại
Việt nam đưa ra cam kết loại bỏ thuế quan theo lộ trình như sau:
+ Xóa bỏ thuế quan đối với 71% số dòng thuế trong Biểu thuế từ 1/1/2018, nâng lên đến 80% số dòng thuế vào năm 2021 và 90% vào năm 2024 (năm cuối của lộ trình)
+ Không cam kết cắt giảm thuế đối với 468 dòng HS 6 số, chiếm khoảng 10% số dòng thuế (trứng, đường, muối, xăng dầu, phân bón, nhựa, cao su, kim loại quý, sắt thép, máy móc, thiết bị điện, ô tô, xe máy, thiết bị phụ tùng, và các mặt hàng an ninh quốc phòng như pháo hoa, súng, thuốc phiện,…)
Cam kết về Quy tắc và Thủ tục Xuất xứ
Hàng hóa được coi là có xuất xứ AIFTA nếu hàng hóa có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại một nước Thành viên, hoặc hàng hóa đáp ứng được một trong hai trường hợp sau:
Hàng hóa đáp ứng tiêu chí xuất xứ chung:
– Hàm lượng giá trị khu vực (RVC): tối thiểu 35%, và
– Chuyển đổi mã HS (CTC): chuyển đổi ở cấp 4 số (CTH: nguyên vật liệu không có xuất xứ phải thuộc nhóm HS khác với nhóm HS của thành phẩm)
Hàng hóa có quy tắc xuất xứ cụ thể: một số hàng hóa không áp dụng tiêu chí xuất xứ chung mà quy tắc xuất xứ cụ thể áp dụng cho hàng hóa đó được quy định trong Danh mục Quy tắc xuất xứ cụ thể mặt hàng.
Bên cạnh đó ta thây ở hiệp định có loại giấy chứng nhận xuất xứ AIFTA là C/O mẫu AI. Hiện 100% C/O mẫu AI do Việt Nam và các thành viên AIFTA cấp đều là C/O bản giấy. AIFTA chỉ cho phép sửa lỗi trên mặt C/O có lỗi mà không cho phép cấp C/O mới thay thế. C/O mẫu AI chỉ có thể cấp trong hoặc sau (không quá 1 năm) thời điểm xuất khẩu của hàng hóa chứ không phép cấp trước thời điểm xuất khẩu như các FTA khác. AIFTA chưa có điều khoản về Tự chứng nhận xuất xứ.
Cam kết Ấn Độ dành cho Việt Nam
Đối với cac cam kết ta cụ thể hóa đó là Ấn Độ cam kết xóa bỏ 80% số dòng thuế vào 2016 (71% số dòng thuế vào 2013, và thêm 9% số dòng thuế vào 2016), 10% số dòng thuế hoàn thành cắt giảm một phần thuế suất vào 2019, danh mục loại trừ chiếm khoảng 10% số dòng thuế. Bên cạnh đó với các mặt hàng Ấn Độ cam kết xóa bỏ thuế quan gồm có mặt hàng như các động vật sống, thịt, cá, sữa, rau quả, dầu mỡ, bánh kẹo, nước hoa quả, hóa chất, mỹ phẩm, nguyên phụ liệu dệt may, sản phẩm dệt may, kim loại, sắt thép, máy móc, thiết bị điện, đồng hồ, …
4. Tác động của hiệp định AIFTA tới Việt Nam:
Tác động tích cực
Hiệp đinh này nhưu đã nói được ký từ năm 2009 và có hiệu lực vào năm 2010, Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Ấn Độ và hiệp định này sau nhiều năm triển khai đã có tác động tích cực đến giao dịch thương mại giữa các bên nói chung, Việt Nam- Ấn Độ nói riêng. Số liệu thống kê cho thấy: Giai đoạn từ năm 2008 – 2009, giá trị kim ngạch XK của Việt Nam sang thị trường ấn đó còn khiêm tốn, lần lượt đạt 389 triệu USD và 420 triệu USD. Sau khi hiệp định có hiệu lực, con số này đã tăng trưởng vượt bậc lên tới 992 triệu USD, tăng trên 136% so với năm 2009. Về nhập khẩu (NK), 5 năm qua, Ấn Độ luôn là 1 trong 10 quốc gia có tổng kim ngạch NK lớn nhất của Việt Nam, chiếm khoảng 2% tổng trị giá hàng hóa NK của cả nước.
9 tháng đầu năm 2015, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đã đạt 3,84 tỷ USD. Đánh giá của Vụ Thị trường châu Phi, Tây Á, Nam Á (Bộ Công Thương), các mặt hàng XK của Việt Nam ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành hàng cũng như tăng về trị giá XK, tạo được thương hiệu, chỗ đứng và niềm tin đối với người tiêu dùng Ấn Độ. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng quy tắc xuất xứ nhằm tận dụng ưu đãi từ cam kết giảm thuế của Chính phủ Ấn Độ trong khuôn khổ hiệp định ngày càng tăng.
Dù đã có hàng lang pháp lý thuận lợi nhưng vài năm trở lại đây, Ấn Độ là một trong số các nước tiến hành điều tra chống bán phá giá và áp dụng phòng vệ thương mại nhiều nhất với hàng XK Việt Nam. Cụ thể trên thực tế ta thấy có tới 5 vụ chống bán phá giá, 4 vụ tự vệ, các sản phẩm của Việt Nam bị Ấn Độ điều tra tương đối đa dạng, từ đĩa DVD, đèn huỳnh quang cho đến sợi- một trong những sản phẩm XK quan trọng của Việt Nam sang thị trường này.
Hiện nay theo hiệp định sức hút từ việc là thành viên của TPP đang khiến Việt Nam trở thành điểm thu hút đầu tư lớn nhất đối với doanh nghiệp dệt may Ấn Độ. Theo đó chính phủ Ấn Độ đã thông qua một chương trình tín dụng dành cho các dự án hợp tác dệt may giữa hai nước lên tới 300 triệu USD. Gói tín dụng này dành ưu đãi cho doanh nghiệp Ấn Độ có tham gia XK, đầu tư vào thị trường Việt Nam trong lĩnh vực dệt may hoặc những doanh nghiệp Việt Nam có hợp tác hoặc muốn NK nguyên liệu dệt may từ Ấn Độ. Theo đó ta thấy những vai trò và sự đóng góp to lớn mà hiệp định mang lại cho Việt Nam và ấn độ để phát huy hơn nữa các ưu thế và tiềm năng về kinh tế.