Tội môi giới hối lộ theo Điều 365 Bộ luật Hình sự năm 2015 là hành vi làm trung gian để việc đưa và nhận hối lộ diễn ra trót lọt. Đây là tội phạm nguy hiểm tiếp tay cho tham nhũng, làm suy giảm tính minh bạch của bộ máy Nhà nước và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin xã hội.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về Tội môi giới hối lộ:
1.1. Khái niệm:
Trong bối cảnh phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam, hành vi môi giới hối lộ vẫn diễn biến phức tạp và thường là mắt xích quan trọng giúp việc đưa, nhận hối lộ thành công. Người môi giới đóng vai trò trung gian, dàn xếp để bên đưa và bên nhận tiếp cận nhau khiến việc hối lộ trở nên tinh vi, khó phát hiện. Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ án tham nhũng, hối lộ lớn đều có sự tham gia của đối tượng môi giới, đặc biệt trong các lĩnh vực nhạy cảm như đấu thầu, cấp phép, tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giải quyết vụ việc hành chính tư pháp. Sự tồn tại của hành vi này làm cho công tác phòng, chống tham nhũng thêm khó khăn và kéo theo nhiều hệ lụy xã hội tiêu cực.
“Tội môi giới hối lộ là hành vi làm trung gian, cầu nối để việc đưa và nhận hối lộ được thực hiện. Người môi giới không trực tiếp đưa hay nhận lợi ích, nhưng lại đóng vai trò tích cực trong việc dàn xếp, thúc đẩy sự thỏa thuận trái pháp luật giữa các bên. Về bản chất, đây là hành vi tiếp tay cho tham nhũng bởi nếu không có môi giới, việc hối lộ có thể khó xảy ra hoặc không thuận lợi. Do đó, pháp luật hình sự Việt Nam quy định tội môi giới hối lộ là một tội danh độc lập, khác với quy định trong Công ước quốc tế chống tham nhũng – vốn chỉ coi đây là hành vi đồng phạm.”
1.2. Ý nghĩa của tội danh trong pháp luật hình sự:
Việc xử lý nghiêm minh tội môi giới hối lộ mang nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Thứ nhất, ngăn chặn tham nhũng từ gốc: triệt tiêu mắt xích trung gian, làm giảm khả năng bên đưa và bên nhận hối lộ tiếp cận nhau.
- Thứ hai, tăng cường tính răn đe, phòng ngừa chung: khẳng định mọi hành vi tham gia vào quá trình hối lộ, dù trực tiếp hay gián tiếp thì đều bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Thứ ba, bảo đảm sự minh bạch trong quản lý: góp phần giữ gìn sự trong sạch của bộ máy Nhà nước và các quan hệ xã hội, tăng cường niềm tin của nhân dân.
- Thứ tư, thực hiện cam kết quốc tế về chống tham nhũng: mặc dù cách tiếp cận có khác biệt nhưng việc hình sự hóa hành vi môi giới hối lộ cho thấy Việt Nam kiên quyết xử lý toàn diện các hành vi liên quan đến hối lộ.
1.3. Cơ sở pháp lý trong Bộ luật Hình sự 2015:
Tội môi giới hối lộ hiện nay đang được quy định tại Điều 365 Bộ luật hHình sự 2015 như sau:
“1. Người nào môi giới hối lộ mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Của hối lộ trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Phạm tội thuộc trường hợp của hối lộ trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.
6. Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
7. Người nào môi giới hối lộ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội môi giới hối lộ:
2.1. Khách thể:
Tội môi giới hối lộ xâm phạm trực tiếp đến: Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức bị thoái hoá biến chất.
Làm môi giơi hối lộ chính là hành vi giúp sức, tiếp tay không chỉ cho một tội phạm mà cho nhiều tội phạm mà thể là tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này là hành vi môi giới hối lộ. Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là “làm môi giới giữa người đưa và nhận hối lộ”.
Biểu hiện của hành vi làm môi giới hối lộ rất đa dạng, gồm:
- Người có hành vi làm môi giới hối lộ có thể gặp người nhận hối lộ để gợi ý thăm dò và đưa ra những yêu cầu của người đưa hối lộ hoặc nhận lời với người nhận hối lộ là sẽ tìm gặp người đưa hối lộ để đưa ra những điều kiện của người nhận hối lộ. Việc làm này có thể chỉ diễn ra một lần hoặc có thể diễn ra nhiều lần;
- Người có hành vi làm môi giơi hối lộ có thể chỉ thu xếp, bố trí thời gian, địa điểm để người đưa hối lộ và người nhận hối lộ tiếp xúc, giao thiệp với nhau về việc đưa và nhận hối lộ;
- Cũng có trường hợp người làm môi giới hối lộ có mặt trong cuộc tiếp xúc giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ để chứng kiến hoặc tham gia vào việc đưa và nhận hối lộ.
Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành khi lợi ích mà hành vi môi giới xảy ra tối thiểu như sau:
- Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên;
- Lợi ích phi vật chất.
Tuy nhiên,điều luật quy định một trường hợp người làm môi giới được miễn trách nhiệm hình sự tại Khoản 6 Điều 365 Bộ luật Hình sự 2015. Đó là người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội môi giới hối lộ không phải là chủ thể đặc biệt. Người phạm tội không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn và cũng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội làm môi giới hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội là do cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
Tức là nhận thức rõ hành vi của mình là làm môi giới hối lộ, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn việc đưa và nhận hối lộ được thực hiện, hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho việc đưa và nhận hối lộ xảy ra.
Người làm môi giới hối lộ có nhiều động cơ khác nhau, có thể vì tình cảm, có thể vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác; động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định động cơ để làm căn cứ khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
3. Khung hình phạt của Tội môi giới hối lộ:
Tội môi giới hối lộ theo Điều 365 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 08 năm đến 15 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng.
Lưu ý:
- Mọi hành vi đưa hối lộ và môi giới hối lộ không phân biệt được thực hiện đối với người có chức vụ, quyền hạn trong hay ngoài Nhà nước đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ theo quy định.
- Cùng với sư nghiêm minh của pháp luật, nhà nước ta cũng đảm bảo chính sách khoan hồng đối với người phạm tội, cụ thể như sau: Đối với tội đưa hối lộ: Nếu như có căn cứ xác minh được việc thực hiện hành vi đưa hối lộ là do bị cưỡng ép, bắt buộc thì người thực hiện hành vi này sẽ không bị coi là có tội. Đồng thời, số lợi ích mà họ đã đưa cho người nhận hối lộ cũng sẽ được trả lại toàn bộ. Người đưa hối lộ, môi giới hối lộ có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu như những người thực hiện các hành vi đó chủ động khai báo trước khi bị cơ quan chức năng phát giác.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội môi giới hối lộ:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội môi giới hối lộ được quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 365 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức: Phạm tội có tổ chức nghĩa là có sự câu kết chặt chẽ, phân công vai trò giữa nhiều người để thực hiện hành vi môi giới hối lộ. Đây là hình thức phạm tội có tính chất nguy hiểm cao vì sự phối hợp nhịp nhàng làm cho việc môi giới tinh vi, khó phát hiện, đồng thời mở rộng quy mô và hậu quả của tội phạm. Chính vì vậy, pháp luật quy định tình tiết này thuộc khung hình phạt nặng khung hình phạt của Tội môi giới hối lộ.
- Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp: Khi hành vi môi giới hối lộ không phải diễn ra ngẫu nhiên mà được thực hiện nhiều lần và liên tục, lấy môi giới hối lộ làm nghề kiếm sống thì được xem là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp. Đây là tình tiết phản ánh sự tha hóa về đạo đức và thái độ coi thường pháp luật, biến hành vi phạm tội thành một “hoạt động thường xuyên”, làm tăng mức độ nguy hiểm và cần xử lý nghiêm khắc hơn.
- Dùng thủ đoạn xảo quyệt: Người phạm tội sử dụng các phương thức tinh vi như che giấu thông tin, sử dụng nhiều lớp trung gian, hợp thức hóa giao dịch… nhằm tránh bị phát hiện. Việc dùng thủ đoạn xảo quyệt khiến cơ quan tiến hành tố tụng khó thu thập chứng cứ, kéo dài quá trình điều tra; từ đó làm phức tạp tình hình tham nhũng, hối lộ. Đây là một tình tiết tăng nặng thể hiện mức độ gian dối và nguy hiểm của hành vi.
- Biết của hối lộ là tài sản của Nhà nước: Khi người môi giới biết rõ “của hối lộ” là tài sản thuộc sở hữu Nhà nước mà vẫn thực hiện hành vi thì mức độ nguy hiểm tăng cao. Điều này bởi vì tài sản công được dùng để đưa hối lộ không chỉ gây thất thoát cho Nhà nước mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích chung của xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với bộ máy công quyền.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Người môi giới hối lộ nếu đồng thời có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức mà lợi dụng vị trí đó để tạo điều kiện cho việc hối lộ diễn ra thì tính chất nguy hiểm của tội phạm càng tăng. Bởi lẽ họ vừa vi phạm nghĩa vụ công vụ, vừa dùng uy tín và quyền hạn để hợp thức hóa hoặc thúc đẩy hành vi trái pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến sự trong sạch, minh bạch của bộ máy Nhà nước và xã hội.
- Phạm tội 02 lần trở lên: Khi người phạm tội đã từng thực hiện hành vi môi giới hối lộ và tiếp tục lặp lại nhiều lần thì cho thấy sự coi thường pháp luật, cố ý phạm tội có tính chất thường xuyên. Đây là biểu hiện của sự tái phạm nguy hiểm làm tăng nguy cơ lan rộng của tình trạng hối lộ, vì vậy pháp luật buộc phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn để răn đe.
- Của hối lộ trị giá từ 100.000.000 đồng trở lên: Giá trị của hối lộ là căn cứ quan trọng để xác định mức độ nguy hiểm của tội phạm. Khi số tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất được môi giới từ 100 triệu trở lên thì hành vi đã vượt quá mức thông thường, gây thiệt hại lớn về kinh tế và xã hội. Vì vậy, tình tiết này được xếp vào khung hình phạt cao hơn nhằm tương ứng với mức độ nghiêm trọng của hậu quả.
5. Phân biệt với Tội đưa hối lộ:
Tội đưa hối lộ và Tội môi giới hối lộ được quy định tại Điều 364 và Điều 365 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
- Một người được coi là phạm tội đưa hối lộ nếu như có hành vi trực tiếp hoặc thông qua quan hệ trung gian để đưa hoặc sẽ đưa cho người đang giữ các chức vụ, quyền hạn những lợi ích nào đó nhằm mục đích yêu cầu họ phải làm hoặc không làm một việc nào đó cho mình.
- Tội môi giới hối lộ chính là việc một người có hành vi đóng vai trò làm trung gian nhằm cố ý tạo cầu nối để một người đưa hoặc sẽ đưa các lợi ích cho người có chức vụ, quyền hạn để họ giúp mình thực hiện hoặc không thực hiện một việc nào đó.
Như vậy, mặc dù không phải trong mọi trường hợp đều có người trung gian môi giới hối lộ, tuy nhiên có thể xác định giữa tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ có mối quan hệ và những điểm tương đồng nhau, cụ thể như sau:
a. Về chủ thể: Có thể nói những người thực hiện hành vi trong cả hai tội này đều không phải chủ thể đặc biệt, tùy theo tính chất và mức độ của hành vi đã thực hiện, chỉ cần đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đã quy định đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Tội đưa hối lộ và môi giới hối lộ đều là những loại tội phạm xâm hại đến hoạt động của tổ chức, cơ quan. Nếu như nhận định hành vi đưa hối lộ là một trong những nguyên nhân tác động trực tiếp làm cho những người có chức vụ, quyền hạn thoái hóa, biến chất thì hành vi môi giới hối lộ có thể được xem như là tiếp tay, giúp sức.
b. Về hành vi phạm tội:
- Trong tội đưa hối lộ, người phạm tội phải thực hiện hành vi đưa hoặc sẽ đưa lợi ích nào đó cho người có chức vụ, quyền hạn. Điều này có nghĩa rằng, hành vi đưa hối lộ có thể xảy ra trước hoặc sau khi người có chức vụ, quyền lợi thực hiện một việc nào đó cho người đưa hối lộ.
- Riêng đối với tội môi giới hối lộ, người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi duy nhất đó chính là trung gian móc nối cho người đưa và người nhận hối lộ. Điều này có thể được thể hiện qua việc người phạm tội đứng ra giới thiệu, thúc đẩy, tạo điều kiện để người đưa và người nhận hối lộ tiếp xúc với nhau.
Nếu như trong một số tội khác, hậu quả của tội phạm phải là dấu hiệu bắt buộc thì đối với tội đưa hối lộ, môi giới hối lộ đây lại không phải điều bắt buộc. Tuy nhiên, giá trị của lợi ích mà người đưa hối lộ đã và sẽ đưa cho người nhận lại có tính chất quyết định đối với tội này. Theo đó, chỉ cần người thực hiện hành vi đưa các lợi ích phi vật chất hoặc vật chất có giá trị từ 2 triệu đồng trở lên đã đủ cấu thành hai tội này.
c. Về mặt chủ quan của tội phạm: Tội đưa hối lộ, môi giới hối lộ chỉ được đặt ra nếu người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Họ nhận thức rõ hành vi của mình cũng như hậu quả của hành vi này nhưng vẫn thực hiện.
Ngoài ra, hai tội danh này có những điểm khác biệt như sau:
Tiêu chí | Tội đưa hối lộ | Tội môi giới hối lộ |
Cơ sở pháp lý | Điều 364 Bộ luật Hình sự 2015. | Điều 365 Bộ luật Hình sự 2015. |
Hành vi | Trực tiếp hoặc qua trung gian đã đưa, hứa hẹn đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác để họ làm/không làm việc vì lợi ích của mình hoặc theo yêu cầu của người đưa. | Làm trung gian (cầu nối) giữa người đưa và người nhận hối lộ. |
Hình phạt | Phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm (mức thấp nhất) hoặc phạt tù đến 20 năm (mức cao nhất). | Phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm (mức thấp nhất) hoặc phạt tù đến 15 năm (mức cao nhất). |
6. Bản án điển hình của Tội môi giới hối lộ:
- Tên bản án:
Bản án 149/2017/HSST ngày 11/08/2017 về Tội môi giới hối lộ của Tòa án nhân dân thành phố Vũng tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Nội dung vụ án:
Do có nhu cầu xây dựng nhà không hợp pháp trên mảnh đất có diện tích khoảng 100 m2 tại hẻm 212/48 đường N, phường T, thành phố V ( diện tích đất này do Trung đoàn E 261 quản lý) nên anh Hoàng Văn B, anh Phạm Văn T, chị Đặng Thị H nhờ Trương Văn H tìm người lo lót để khi xây nhà không bị tháo dỡ thì H đồng ý. Qua sự giới thiệu của anh Phạm Xuân D, H gặp Mai Trọng Đ nhờ tìm người lo lót xây dựng nhà thì Đ đồng ý. Đ gặp Lê Văn K ( là cán bộ của Trung đoàn E261 ) nhờ K giúp đỡ liên hệ để việc xây dựng nhà được thực hiện mà không bị tháo dỡ. Đ và H thỏa thuận thống nhất với anh T, anh B, chị H số tiền lo lót là 35.000.000đ ( anh T, chị H đưa 17.500.000đ, anh B đưa 17.500.000đ).
Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05-09-2016, Đ cùng chị H, anh T và anh B đến nhà H. Tại đây, Đ viết giấy nhận tiền để xây dựng nhà và cam kết công trình không bị đập phá, tháo dỡ. Sau khi viết biên nhận xong tất cả đều ký xác nhận nội dung này. Do Đ viết chữ xấu nên vào sáng ngày 06-09-2016, tại nhà của H anh B đã viết lại giấy Biên bản nhận tiền có nội dung như đã thỏa thuận trước đó để Đ, H cùng anh T, chị H, anh B ký lại. Sau khi ký giấy xong anh T, chị H, anh B giao tổng số tiền 35.000.000đ cho Đ và H. Sau khi nhận tiền, Đ chia cho H 1.500.000đ, cho anh D 1.500.000đ, đưa cho K 15.000.000đ. Số tiền còn lại Đ sử dụng hết.
Ngày 10-09-2016, H tiến hành xây dựng nhà cho anh T, anh B tại vị trí đất nêu trên thì bị Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V lập biên bản vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai, cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm trật tự đô thị. Đến cuối tháng 10-2016, anh B tiếp tục đưa cho Đ số tiền 5.000.000đ để đề nghị Đ tiếp tục lo lót cho Đội trật tự đô thị phường T, thành phố V để anh B tiếp tục xây dựng nhà. Đ đồng ý và đưa cho K 3.000.000đ, còn 2.000.000đ Đ sử dụng hết.
Sau đó, H tiếp tục xây nhà cho anh B và hoàn thiện xong. Đến ngày 31-10- 2016, Ủy ban nhân dân phường T, thành phố V tiến hành cưỡng chế tháo dỡ công trình nêu trên. Quá trình điều tra, Mai Trọng Đ đã tự nguyện giao nộp số tiền 19.000.000đ, Trương Văn H nộp 1.500.000đ, anh Phạm Văn D nộp 1.500.000đ.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố: Các bị cáo Mai Trọng Đ, Trương Văn H phạm tội “Môi giới hối lộ”.
+ Xử phạt Mai Trọng Đ 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 03 năm 2017; và Trương Văn H 06 ( sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08 tháng 05 năm 2017.
THAM KHẢO THÊM: