Điều kiện bảo hộ quyền đối với giống cây trồng? Thủ tục bảo hộ quyền đối với giống cây trồng?
Bảo hộ giống cây trồng là hệ thống sở hữu trí tuệ đặc thù liên quan tới giống cây trồng. Bảo hộ giống cây trồng có những nét đặc thù riêng so với các dạng sở hữu trí tuệ khác do cây trồng là một cơ thể sống, có sự biến đổi trong quá trình tồn tại. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với giống cây trồng đã xuất hiện ở một số quốc gia trên thế giới gần 100 năm trước nhưng tại Việt Nam thì đây là một lĩnh vực khá mới. Tuy nhiên, không phải mọi giống cây trồng đều được bảo hộ mà phải đáp ứng các điều kiện nhất định, đồng thời về mặt pháp lý phải thực hiện các thủ tục làm phát sinh và ghi nhận sự bảo hộ của nhà nước đối với giống cây trồng.
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
Văn bản hợp nhất
Trước khi đi vào phân tích nội dung chính, tác giả cung cấp một số khái niệm liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ như sau:
– Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại thực vật thấp nhất, đồng nhất về hình thái, ổn định qua các chu kỳ nhân giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di truyền được. (Khoản 24, Điều 4). Khái niệm này được xây dựng phù hợp với Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới năm 1961.
– Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. (Khoản 5 Điều 4).
Mục lục bài viết
1. Điều kiện bảo hộ quyền đối với giống cây trồng?
Xác định điều kiện bảo hộ là điểm đặc thù nhất trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với giống cây trồng. So với đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ, điều kiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với giống cây trồng được dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau và tương đối phức tạp. Đây là lí do chính để giống cây trồng được tách riêng thành lĩnh vực độc lập so với quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp.
Dựa trên điều kiện chung được quy định tại Điều 158 Luật Sở hữu trí tuệ: “Giống cây trồng được bảo hộ là giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển, thuộc Danh mục loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, có tính mới, tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định và có tên phù hợp.“. Theo quy định này, về mặt hình thức pháp lý, điều kiện để được bảo hộ là giống cây trồng phải thuộc Danh mục loài cây trồng được nhà nước bảo hộ, theo đó, tại Thông tư 28/2015/TT-BNNPTNT về Danh mục loài cây trồng được bảo hộ do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành đã liệt kê 107 loại cây trồng theo tên quốc tế và tên Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi điều kiện này là chưa đủ, giống cây trồng phải đáp ứng đồng thời 05 điều kiện sau:
Một là, tính mới của giống cây trồng.
Tính mới là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất trong các điều kiện. Tính mới của giống cây trồng được giải thích tại Điều 159 khá cụ thể, đó là trường hợp: “vật liệu nhân giống hoặc sản phẩm thu hoạch của giống cây trồng đó chưa được người có quyền đăng ký quy định tại Điều 164 của Luật này hoặc người được phép của người đó bán hoặc phân phối bằng cách khác nhằm mục đích khai thác giống cây trồng trên lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký một năm hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam trước ngày nộp đơn đăng ký sáu năm đối với giống cây trồng thuộc loài thân gỗ và cây nho, bốn năm đối với giống cây trồng khác.” Quy định trên cho thấy việc xác định tính mới đối với giống cây trồng và tính mới của các đối tượng sở hữu trí tuệ khác (như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp…) có sự khác biệt.
Hai là, tính khác biệt của giống cây trồng.
Hầu hết đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ khi được bảo hộ đều phải đảm bảo tính khác biệt, điều này nhằm ngăn chặn hành vi gian lận, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 160 Luật Sở hữu trí tuệ: “Giống cây trồng được coi là có tính khác biệt nếu có khả năng phân biệt rõ ràng với các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi tại thời điểm nộp đơn hoặc ngày ưu tiên nếu đơn được hưởng quyền ưu tiên.“
Sự khác biệt của giống cây trồng thường được xác định bằng các tính trạng, các tính trạng này có thể thuộc về hình thái học (hình dạng lá, hình dạng hoa, màu hoa) hoặc có thể thuộc sinh lí học (thời gian sinh trưởng…).
Ba là, tính đồng nhất của giống cây trồng.
Tính đồng nhất là một trong các điều kiện thể hiện rõ tính chất đặc thù trong việc bảo hộ giống cây trồng. Điều 161 Luật Sở hữu trí tuệ ghi nhận rằng: “Giống cây trồng được coi là có tính đồng nhất nếu có sự biểu hiện như nhau về các tính trạng liên quan, trừ những sai lệch trong phạm vi cho phép đối với một số tính trạng cụ thể trong quá trình nhân giống.” Tùy thuộc vào từng loài, từng chi của giống cây trồng mà mức độ yêu cầu về tính đồng nhất được xác định trong quy chế khảo nghiệm về tính đồng nhất của giống cây trồng.
Bốn là, tính ổn định của giống cây trồng.
Bên cạnh tính đồng nhất, tính ổn định cũng là một trong các đặc điểm thể hiện đặc trưng riêng của việc bảo hộ giống cây trồng. Tính ổn định được quy định cụ thể tại Điều 162 Luật Sở hữu trí tuệ: “Giống cây trồng được coi là có tính ổn định nếu các tính trạng liên quan của giống cây trồng đó vẫn giữ được các biểu hiện như mô tả ban đầu, không bị thay đổi sau mỗi vụ nhân giống hoặc sau mỗi chu kỳ nhân giống trong trường hợp nhân giống theo chu kỳ.” Giống cây trồng cũng được xem là có tính ổn định nếu qua thời gian, giống cây trồng có thể có thay đổi nhất định về chất lượng dưới sự tác động của điều kiện ngoại cảnh nhưng tính trạng liên quan của giống cây vẫn giữ được theo mô tả ban đầu.
Năm là. giống cây trồng có tên. Bên cạnh các điều kiện trên, giống cây trồng phải có tên phù hợp, tính phù hợp được xác định “nếu tên đó có khả năng dễ dàng phân biệt được với tên của các giống cây trồng khác được biết đến rộng rãi trong cùng một loài hoặc loài tương tự” (Khoản 2, Điều 163 Luật Sở hữu trí tuệ).
2. Thủ tục bảo hộ quyền đối với giống cây trồng?
Nguyên tắc chi phối mọi hoạt động liên quan đến bảo hộ quyền đối với giống cây trồng là: “Để được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng, tổ chức, cá nhân phải thực hiện việc nộp đơn đăng ký bảo hộ cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền đối với giống cây trồng.” Như vậy, thủ tục quan trọng nhất đó là nộp đơn đăng ký bảo hộ.
Đơn đăng ký bảo hộ phải bao gồm các tài liệu sau: Tờ khai đăng ký bảo hộ giống cây trồng; Tờ khai kỹ thuật khảo nghiệm tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định (khảo nghiệm DUS);
Chủ thể tiếp nhận đơn: Văn phòng Bảo hộ giống cây trồng mới – Cục Trồng trọt.
Trên cơ sở tiếp nhận đơn, chủ thể có thẩm quyền tiến hành thẩm định hình thức đơn đăng ký bảo hộ, công bố đơn đăng ký bảo hộ, thẩm định nội dung đơn đăng ký bảo hộ. Từ đó thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cần thiết để đưa ra quyết định từ chối hay chấp nhận cấp bằng bảo hộ giống cây trồng.
Kết quả: Tổ chức, cá nhân được cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng và ghi nhận việc cấp Bằng bảo hộ và nội dung Bằng bảo hộ vào Sổ đăng ký quốc gia về giống cây trồng.
Đối với người thực hiện đăng ký bảo hộ thì thủ tục được pháp luật quy định không quá phức tạp, tính phức tạp chủ yếu thuộc về cơ quan có thẩm quyền trong việc đánh giá các điều kiện về bảo hộ giống cây trồng để đưa ra các quyết định cấp bằng bảo hộ đúng đắn. Nhìn chung, các quy định về bảo hộ giống cây trồng được quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam tương thích và tiếp thu gần như trọn vẹn tinh thần của Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới, điều này làm cho mặc dù Luật Sở hữu trí tuệ ở phần thủ tục không có sự sửa đổi, bổ sung trong Luật năm 2019 nhưng vẫn giữ được những nét tiến bộ và phù hợp cơ bản đối với điều kiện cũng như thủ tục bảo hộ quyền đối giống cây trồng. Ngày nay, bảo hộ giống cây trồng đang là xu hướng bởi sự phát triển đa dạng của giới sinh vật cho phép sự ra đời của nhiều giống mới có khả năng ứng dụng cao.