Bồi thường tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất? Nguyên tắc bồi thường về tài sản khi thu hồi đất? Bồi thường chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất?
Thu hồi đất là việc chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đối với một diện tích đất nhất định. Bên cạnh thu hồi đất thì cũng cần giải quyết những hậu quả kinh tế- xã hội để duy trì sự ổn định của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình bị thu hồi đất từ đó duy trì sự ổn định của xã hội. Trong bồi thường khi thu hồi đất thì bồi thường chi phí di chuyển tài sản đóng vai trò quan trọng, nhằm hỗ trợ tối đa người bị thu hồi đất. Bài viết dưới đấy chúng tôi sẽ cung cấp các thông tin về bồi thường chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất.
Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
1. Bồi thường tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất
Tài sản trên đất là những tài sản hữu hình, có hình thái vật chất tồn tại trên mặt đất bao gồm tài sản di dời được (tài sản là động sản) và tài sản không di dời được (tài sản là bất động sản) như nhà ở, công trình xây dựng, cây trồng, vật nuôi,…
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai. Khi Nhà nước thu hồi đất, người có đất bị thu hồi bắt buộc phải di chuyển đến nơi ăn ở mới, họ mất tư liệu sản xuất ổn định của mình. Tài sản của công dân được bảo hộ theo hiến pháp và pháp luật. Đó là những tài sản mà người dân tốn rất nhiều công sức mới có được. Khi Nhà nước thu hồi đất dù để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng nhưng khi người dân có tài sản trên đất bị thiệt hại, ảnh hưởng nghiêm trọng. Hoạt động thu hồi đất là nguyên nhân trực tiếp tạo nên những thiệt hại về tài sản cho người dân. Do vậy mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trước hết là trách nhiệm của Nhà nước nhằm đảm bảo chia sẻ lợi ích, bù đắp những tổn thất, thiệt hại về đất, về những tài sản gắn liền với đất và cũng nhằm để ổn định đời sống cho người sử dụng đất có đất bị thu hồi.
Căn cứ vào phạm vi bồi thường thì người buộc đối tượng bị nhà nước thu hồi đất được bồi thường các chi phí: bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất. Có thể hiểu bồi thường tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước bù đắp những tổn thất, thiệt hại; trả lại giá trị tương đương đối với những tài sản trên đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
2. Nguyên tắc bồi thường về tài sản khi thu hồi đất
Trước đây, trong Luật Đất đai 2003, các chế định bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được quy định trong 03 điều ( Điều 41, 42 và 43 ) và trên thực tế đã không thể thể chế, chuyển tải hết các quy định mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương, các bộ, ngành. Khắc phục hạn chế này, Luật Đất đai 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về tài sản trên đất thành một điều luật riêng biệt ( Điều 88 Luật Đất đai 2013 ). Trong đó, quy định cụ thể các nguyên tắc bồi thường về tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất căn cứ vào đó thống nhất thực hiện.
Điều 88 Luật đất đai 2013 đề cập đến” nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản sản xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất” như sau:
“1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.
2. Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi thường thiệt hại.”
Nguyên tắc này là một điểm mới của Luật đất đai 2013 khi đã bắt đầu xem xét đất đai không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tư liệu sản xuất. Trên thực tế, ngoài ý nghĩa là tài sản, đất đai còn là tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất và nguồn sống của con người. Vì đất là tư liệu sản xuất của người bị thu hồi đất nên ngoài việc bồi thường giá trị như một tài sản, người dân còn phải được bồi thường về thu nhập, sinh kế đã bị ảnh hưởng hoặc thiệt hại từ hành vi thu hồi. Điều 88 được bổ sung so với Luật đất đai 2003 này cũng đã nhấn mạnh thêm nguyên tắc khách quan của bồi thường thu hồi đất đã được đề cập trong Điều 74.
Các phân tích về nguyên tắc trong bồi thường tài sản trên đất khi Nhà nước thu hồi trên đây cho ta thấy tính phức tạp của vấn đề. Xem xét, tính toán, quyết định một mức giá bồi thường hợp lý, khách quan là một việc không đơn giản. Do vậy, ngoài vai trò chủ đạo của các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức thực hiện, sự tham gia của khu vực tư là hết sức cần thiết. Trong nhiều trường hợp, Nhà nước cần làm cầu nối giữa người bị thu hồi đất và người thụ hưởng đất sau thu hồi (các nhà đầu tư), bởi đây là hai chủ thể có lợi ích gắn bó trực tiếp trong vấn đề này. Thỏa hiệp dân sự trong những trường hợp này không chỉ giảm tải áp lực cho các cơ quan nhà nước mà còn hứa hẹn đem lại những giải pháp tích cực, hợp tình, hợp lý trong vấn đề bồi thường.
3. Bồi thường chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất
Khi Nhà nước thu hồi đất, các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải thực hiện di dời tài sản, tư liệu sản xuất đến nơi ở mới. Khi đó, phát sinh hoạt động phải tiến hành tháo dỡ những tài sản, tư liệu sản xuất từ nơi bị thu hồi, di chuyển và lắp đặt đến nơi tái định cư mới. Đặc biệt trong các trường hợp cơ sở sản xuất bị thu hồi đất, thì lượng máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất cần phải di chuyển là rất lớn. Lúc này đặt ra vấn đề cần phải bồi thường, chính vì việc thu hồi đất mà dẫn đến trách nhiệm phải di dời tài sản, tư liệu sản xuất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mà phát sinh các chi phí di dời, lắp đặt. Nên có thể xác định trách nhiệm bồi thường chi phí di chuyển này là trách nhiệm của Nhà nước khi thu hồi đất, nhằm hỗ trợ người bị thu hồi đất về những thiệt hại từ việc thu hồi.
Hiện tại việc bồi thường chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất được áp dụng theo quy định tại Điều 91 Luật Đất đai 2013, cụ thể:
“1. Khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển tài sản thì được Nhà nước bồi thường chi phí để tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt; trường hợp phải di chuyển hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất còn được bồi thường đối với thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt.
2. UBND cấp tỉnh quy định mức bồi thường tại khoản 1 Điều 91 Luật Đất đai.”
Như vậy, tại điều luật này thì Nhà nước sẽ chịu bồi thường về những chi phí tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt tài sản đến nơi mới, nếu trong quá trình tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt mà gây thiệt hại thì Nhà nước cũng chịu trách nhiệm bồi thường. Ủy ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm quy định về mức bồi thường về chi phí tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt tài sản của tình mình, căn cứ trên những điều kiện thực tế của tình mình. Do đó, mức bồi thường về chi phí di chuyển sẽ khác nhau đối với từng tỉnh.
Ví du như đối với thực hiện bồi thường chi phí di chuyển khi thu hồi đất tại thành phố Hà Nội: thực hiện Điều 91 Luật Đất đai 2013, Điều 15 Quyết định số 10/ 2017/ QĐ UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội quy định về bồi thường chi phí di chuyển tài sản khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể như sau: – Đối với hộ gia đình, cá nhân: Bồi thường 5.000.000 đồng ( năm triệu đồng )/ chủ sử dụng nhà ở, đất ở đối với trường hợp di chuyển chỗ ở trong phạm vi Thành phố ; 8.000.000 đồng ( tám triệu đồng )/ chủ sử dụng nhà ở, đất ở đối với trường hợp di chuyển chỗ ở về tỉnh, thành phố khác.
Đối với tổ chức: Đối với hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất và tài sản hợp pháp có thể tháo dời và di chuyển được thì đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng căn cứ biên bản điều tra hiện trạng của tổ công tác, có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn nơi thu hồi đất, để thuê đơn vị tư vấn có tư cách pháp nhân lập dự toán tháo dỡ, di chuyển, lắp đặt lại ( bao gồm cả mức thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất ), gửi Phòng chuyên môn quận, huyện, thị xã, thẩm định để báo cáo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư xem xét, trình UBND cấp huyện phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ. Chi phí phá dỡ các công trình xây dựng trong phạm vi chỉ giới thu hồi đất giải phóng mặt bằng phải được xác định và tính toán trong giá trị tổng mức đầu tư của dự án.