Quy định của pháp luật về trường hợp đồng phạm được cụ thể trong "Bộ luật hình sự năm 2015", sửa đổi năm 2009.
Trong thực tiễn xét xử, nhiều khi chúng ta vẫn thấy trước vành móng ngựa không phải là một bị cáo mà là hai, ba, thậm chí nhiều hơn nữa. Sở dĩ có điều đó vì tội phạm không phải lúc nào cũng chỉ được thực hiện bởi duy nhất một cá nhân.
Chính vì thế, trong Bộ luật Hình sự Việt Nam xuất hiện một chế định gọi là đồng phạm. Vậy đồng phạm là gì? Pháp luật quy định như thế nào về những loại người đồng phạm? Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm ra sao?… Đó là những nội dung sẽ được đề cập trong bài viết dưới đây.
1. Đồng phạm là gì?
Khoản 1, Điều 20 Bộ luật hình sự quy định như sau:
“Điều 20. Đồng phạm
1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”
Như vậy, hai dấu hiệu chính để phân biệt đồng phạm với phạm tội đơn lẻ chính là số lượng người tham gia thực hiện tội phạm và lỗi của những người đó.
– Về số lượng: Đồng phạm phải có từ hai người trở lên và những người này phải có năng lực trách nhiệm hình sự cũng như đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (đủ 14 tuổi trở lên). Nếu tội phạm đòi hỏi có chủ thể đặc biệt thì chỉ cần người trực tiếp thực hiện tội phạm thoả mãn dấu hiệu của chủ thể đặc biệt còn những người đồng phạm khác không cần tới những dấu hiệu này. Tuy nhiên, tất cả những người trên đều phải cùng tham gia vào thực hiện một tội phạm.
– Về lỗi của những người đồng phạm: Điều 20 Bộ luật hình sự ghi nhận lỗi trong đồng phạm là lỗi cố ý. Cố ý phạm tội được quy định tại điều 9 Bộ luật hình sự như sau:
“Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.”
Mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi phạm tội của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý của những người đồng phạm khác. Sự cố ý này thể hiện ở lý trí và ý chí. Về lý trí, mỗi người đồng phạm không chỉ nhận thức được hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội mà còn nhận thức được cùng hành động với mình còn có những người đồng phạm khác và hành vi của những người này cũng gây nguy hiểm cho xã hội, không chỉ thấy được hậu quả do hành vi của mình gây ra mà còn thấy trước được hậu quả đó là kết quả của tất cả hành vi của những người đồng phạm khác. Về ý chí, những người đồng phạm đều mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc cùng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.
Đối với những tội phạm có mục đích là dấu hiệu bắt buộc thì chỉ coi phạm tội trong trường hợp đồng phạm khi tất cả những người tham gia thực hiện tội phạm cùng hướng tới mục đích đó. Cùng mục đích có thể là cùng chung mục đích hoặc biết rõ và cùng chấp nhận mục đích.
2. Các loại người đồng phạm.
Khoản 2 điều 20 Bộ luật hình sự quy định về các loại người đồng phạm, trong đó nêu rõ có bốn loại người đồng phạm, đó là: người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức.
“2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.”
2.1. Người thực hành:
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Được coi là trực tiếp thực hiện tội phạm nếu tự mình thực hiện hành vi hoặc tác động tới người không phải chịu TNHS để người này thực hiện. Đối với trường hợp tự mình thực hiện hành vi, người thực hành có thể thực hiện toàn bộ những hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng cũng có thể chỉ thực hiện một phần hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (trong trường hợp tội phạm có từ hai hành vi trở lên). Chẳng hạn trong tội hiếp dâm, có thể chỉ có một người giữ tay chân nạn nhân cho người còn lại giao cấu. Nếu tách riêng rẽ hai hành vi trên thì không hành vi nào cấu thành tội hiếp dâm, nhưng nếu tổng hợp lại thì thoả mãn dấu hiệu hành vi được mô tả tại điều 111 Bộ luật hình sự, như vậy nếu hai người tham gia đều là nam giới (thoả mãn dấu hiệu chủ thể) thì đều được xác định là người thực hành. Đối với trường hợp thực hiện hành vi thông qua người khác, người thực hành không trực tiếp thực hiện mà có hành vi tác động đến người khác để người này thực hiện những hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Người bị tác động thực chất là công cụ của người thực hành, họ có thể là những người không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không có lỗi hoặc chỉ có lỗi vô ý, hoặc được loại trừ trách nhiệm hình sự do bị cưỡng bức về tinh thần.
Người thực hành có thể giữ vai trò quan trọng trong vụ án đồng phạm hoặc không. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, họ được coi là người có vai trò trung tâm vì Toà án thường căn cứ vào hành vi của người thực hành để giải quyết các vấn đề về định tội danh, xác định các giai đoạn phạm tội,…
2.2. Người tổ chức
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Trước năm 1985, người ta thường sử dụng khái niệm người tổ chức để chỉ những người đứng đầu trong các vụ án phản cách mạng. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, tổ chức không chỉ đơn thuần trong lĩnh vực chính trị mà còn khá đa dạng trong cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội… Trong mối quan hệ với những người đồng phạm khác, người tổ chức được hiểu là người thành lập nhóm đồng phạm hoặc điều khiển hoạt đông của nhóm. Người thành lập nhóm là người có hành vi đề xướng việc thành lập nhóm, thực hiện đề xướng và thiết lập các mối liên hệ giữa những người tham gia nhóm với nhau. Trong điều khiển hoạt động của nhóm, người tổ chức có thể vạch ra phương hướng hoạt động, vạch kế hoạch thực hiện, phân công vai trò cho những người đồng phạm hoặc trực tiếp điều khiển một vụ việc cụ thể của nhóm.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Với vai trò đó, người tổ chức luôn bị coi là người nguy hiểm nhất trong những người đồng phạm và là đối tượng cần phải bị nghiêm trị.
2.3. Người xúi giục.
Người xúi giục là người bằng lời nói hoặc hành động của mình kích động, dụ dỗ người khác thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Người xúi giục có thể là người nghĩ ra việc phạm tội và thúc đẩy người khác thực hiện hoặc thúc đẩy người khác thực hiện ý định phạm tội đã có. Sự xúi giục có thể được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như kích động, lôi kéo, dụ dỗ, lừa phỉnh, hứa hẹn,… Chỉ được coi là người xúi giục trong đồng phạm khi hành vi xúi giục đó phải trực tiếp và cụ thể. Trực tiếp tức là nhằm vào một hoặc một số đối tượng nhất định chứ không mang tính chất hô hào chung chung. Cụ thể nghĩa là hành vi xúi giục phải nhằm hướng tới một tội phạm nhất định, việc tuyên truyền, phổ biến, gieo rắc tư tưởng xấu khiến người khác đi vào con đường phạm tội không được gọi là hành vi xúi giục. Như vậy nếu chỉ có những lời nói, hành động ảnh hưởng tới việc phạm tội của người khác mà không có ý định thúc đẩy họ phạm tội thì cũng không phải là người xúi giục.
2.4. Người giúp sức.
Người giúp sức là người tạo ra những điều kiện vật chất hoặc tinh thần để tội phạm được thực hiện một cách thuận lợi hơn. Giúp sức về vật chất có thể là cung cấp công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội hoặc dẹp bỏ những trở ngại khách quan để tội phạm được diễn ra suôn sẻ. Giúp sức về tinh thần có thể là chỉ dẫn, góp ý, cung cấp tình hình hoặc giúp bằng lời hứa hẹn trước. Pháp luật quy định “Giúp sức bằng lời hứa hẹn trước” là một dạng giúp sức đặc biệt trong đồng phạm, đó là việc người giúp sức hứa sẽ che dấu người phạm tội, che dấu tang chứng, vật chứng hoặc tiêu thụ tài sản có được từ việc phạm tội. Hành vi giúp sức trên thực tế có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động.
3. Trách nhiệm hình sự trong đồng phạm.
Việc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm vừa phải tuân theo những nguyên tắc chung vừa phải tuân theo những nguyên tắc riêng biệt, đó là:
– Nguyên tắc chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm.
Do tội phạm là một thể thống nhất và không thể chia cắt. Hơn nữa, tội phạm được thực hiện là do nỗ lực chung của những người đồng phạm, hành vi của mỗi người góp phần tạo nên hậu quả chung nguy hiểm cho xã hội. Chính vì thế, theo nguyên tắc này, tất cả những người đồng phạm đều bị truy tố, xét xử theo cùng một tội danh, cùng điều luật và trong phạm vi chế tài của điều luật ấy.
– Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập.
Điều 53 Bộ luật hình sự quy định:
“Điều 53. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Toà án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.
Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.”
Trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân, do vậy mỗi người đồng phạm cũng phải chịu trách nhiệm hình sự trên cơ sở hành vi của mình. Nguyên tắc chịu trách nhiệm độc lập được thể hiện ở chỗ: những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá giới hạn đã thoả thuận trước của người thực hành; việc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt của người đồng phạm này không loại trừ trách nhiệm hình sự những người đồng phạm khác; sự tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người đồng phạm này cũng không ảnh hưởng đến những người đồng phạm khác;…
Dựa vào những nguyên tắc trên, việc quyết định mức hình phạt đối với mỗi loại người đồng phạm trong cùng một vụ án là khác nhau. Toà án khi quyết định hình phạt cần căn cứ vào quy định tại điều 53 Bộ luật hình sự để đưa ra mức hình phạt tương xứng cho từng đối tượng cụ thể.
4. Phạm tội có tổ chức – trường hợp đồng phạm đặc biệt.
Phạm tội có tổ chức là một trường hợp đồng phạm đặc biệt. Tính đặc biệt thể hiện ở mối liên kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm. Trong đồng phạm có tổ chức, giữa những người đồng phạm vừa có sự liên kết chặt chẽ, vừa có sự phân hoá vai trò, phân công nhiệm vụ rõ rệt, cụ thể. Với những đặc điểm như vậy, phạm tội có tổ chức có khả năng lớn cho phép phạm tội liên tục, nhiều lần, gây hậu quả lớn và khó bị phát hiện. Điều này lý giải vì sao phạm tội có tổ chức được quy định là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như tăng nặng định khung trong các tội phạm cụ thể.
Bạn có thể tham khảo thêm một số bài viết có liên quan khác của Dương Gia:
– Cầm hộ tài sản trộm cắp có bị coi là đồng phạm không?
– Hỏi về các loại người đồng phạm trong Bộ luật Hình sự
– Các hình thức đồng phạm trong vụ án hình sự
Mọi thắc mắc pháp lý cần tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ, quý khách hàng vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 1900.6568 hoặc gửi thư về địa chỉ email: [email protected].
——————————————————–
THAM KHẢO CÁC DỊCH VỤ CÓ LIÊN QUAN CỦA LUẬT DƯƠNG GIA:
– Tư vấn luật miễn phí qua điện thoại
– Tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại
– Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại